Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

Tâm lý trẻ em

Trong chừng mực của vấn đề giáo dục thanh thiếu niên và thiếu nhi, các nhà sư phạm và giáo dục cũng sẽ không thể nào bỏ qua, không tìm hiểu khoa Tâm lý học đặc biệt đối với từng lứa tuổi các em.

Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu dựa vào những thành quả quý giá, tích lũy từ bao thời, của bao người cũng như chính các nét đặc thù truyền thống của dân tộc Việt Nam chúng ta nữa.

Ngoài ra, mỗi người chúng ta cũng nên đối chiếu lại với chính kinh nghiệm thời thơ ấu và niên thiếu của mình, những gì mình đã bị gánh chịu thiệt thòi, cũng như những gì mình đã may mắn được đón nhận.
Xin hãy luôn nhớ: bản thân mỗi người chúng ta đều từng là một đứa trẻ nhỏ. Vậy, xin đừng biến các trẻ nhỏ hôm nay thành “những ông cụ non”, các “bà thánh nhỏ”, nghĩa là bắt các em phải rập khuôn về tâm lý và luân lý theo kiểu người lớn, một điều mà ngày xưa chính chúng ta đã bực bội khó chịu và âm thầm đề kháng mỗi khi bị áp đặt!
Tâm lý lứa tuổi ấu nhi (1 - 3 tuổi)
Trong thực tế, ở độ tuổi này, các em vẫn còn hoàn toàn thuộc vào vòng tay chăm sóc và giáo dục của bố mẹ và anh chị trong gia đình các em. Thế nhưng, nếu con bạn đã qua tuổi này mà đến bây giờ bạn mới quan tâm thì vẫn cần nghiên cứu thấu đáo giai đoạn này để có thể hiểu được các diễn biến tâm lý nơi cháu bé. Nơi mỗi một con người luôn có sự phát triển liên tục từ độ tuổi này sang độ tuổi khác, cái trước làm tiền đề cho cái sau kế thừa.
Với lứa tuổi ấu nhi: Các nhà chuyên môn gọi giai đoạn tâm lý này là Première Enfance, bởi từ đây, đứa bé bắt đầu “thôi nôi”, lẫm chẫm tập đi những bước đầu đời, đưa tay sờ nắm bất cứ vật gì nằm trong tầm tay, dõi mắt khám phá những khung cảnh tương đối xa hơn và hoàn toàn mới lạ, phạm vi tương quan tiếp xúc với người khác cũng rộng hơn chứ không chỉ dừng lại nơi vòng tay người mẹ. Do vậy, cần chuẩn bị cho bé một không gian và môi trường an toàn, khoáng đãng, không ô nhiễm về tiếng động và khí thở, có nhiều đồ vật tròn trĩnh, dễ thương, nhiều màu sắc hài hòa mà hấp dẫn.
Ngoài ra, bầu khí tương quan chung quanh phải nhất thiết là sự trìu mến, yêu thương, hạnh phúc. Giấc ngủ của các em có thể được nâng niu bằng âm nhạc, nhất là những điệu ru hời dân gian Việt Nam và nhạc cổ điển êm dịu của Tây phương...
Tóm lại, đây là thời kỳ của những giác động (sensori motrice) mở ra cho các em những tiếp xúc vật chất và những tương quan nhân vị, chủ yếu dựa vào ngũ giác (nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ) vượt trội hơn hẳn giai đoạn bé còn nằm trong nôi hoặc được bồng ẵm trên tay của người lớn.
Cũng cần phải nhìn nhận rằng: điều gì đã là khởi đầu thì tất yếu sẽ là nền tảng hết sức quan trọng cho tương lai. Ngay trước lứa tuổi ấu nhi này, các nhà chuyên môn đang mở ra một giai đoạn ngược về thời kỳ đứa bé còn nằm trong bụng mẹ để khởi sự việc giáo dục một cách gián tiếp bằng khoa Thai
Tâm lý lứa tuổi nhi đồng (3 - 7 tuổi)
Bước vào giai đoạn này, các nhà chuyên môn gọi là giai đoạn Deuxième Enfance, bởi các em có thể đã được gửi vào nhà trẻ, vườn trẻ và sau đó bắt đầu vào các lớp mẫu giáo: mầm, chồi, lá.
Tại các nước tiên tiến, phong trào Hướng Đạo mới đây đã thêm ngành Nhi, đặt trước các ngành Ấu, Thiếu, Kha, Tráng vốn đã có từ lâu. Riêng ở Việt Nam, việc thử nghiệm ngành Nhi cũng đã được khởi sự.
Việc sớm đưa các em đến trường, cho sinh hoạt tập thể..., gạt ra ngoài lý do không đáng khuyến khích là bố mẹ các em chỉ muốn đùn cho xã hội phải lo thay để mình còn rảnh tay làm ăn và giải trí, thì phương cách này có những giá trị tích cực. Đây là dịp để các em được mở rộng tiếp xúc nhiều hơn nữa với thế giới chung quanh muôn màu muôn vẻ, đồng thời các em được các cô bảo mẫu, các thầy cô giáo mẫu giáo có lương tâm tập tành cho các em một số những đức tính, những thói quen, tập quán tốt.
Thế nhưng, ngoài thời gian đi nhà trẻ hoặc mẫu giáo, thì không gian, thời gian và bầu khí sống chính yếu của các em vẫn là gia đình. Đây là thời kỳ các em phải trải qua một cơn khủng hoảng tâm lý tương đối nhẹ nhàng để tự củng cố cái Tôi (le Moi) của mình.
  • Các em bắt đầu ý thức được rằng mình có thể cưỡng chống lại tất cả những gì xem ra người lớn muốn áp đặt lên tự do của mình. Sau một đôi lần thành công, các em sẽ tìm cách tận dụng khả năng này, sao cho có lợi nhất cho bản thân, không cần quan tâm rằng điều đó có lợi hay có hại cho mình và cho người khác.
  • Trí khôn của các em chuyển dần từ chỗ tiền quan niệm (précon-ceptuelle) còn khá mơ hồ, sang thế trực giác (intituive) một cách cụ thể.
  • Cũng trong giai đoạn này, các em thường tự tìm hiểu hoặc đặt ra cho người lớn những câu hỏi “tại sao” có chủ ý vụ lợi (utilitaire) và có chủ đích (finaliste) rằng điều đó, cái đó “để làm gì vậy”
  • Do vậy, người lớn cần kiên nhẫn để trả lời các câu hỏi loại này, đồng thời hướng các em đến những khái niệm bớt vị kỷ vụ lợi cho bản thân. Cũng đừng nên trình bày vấn đề quá sâu xa phức tạp khiến các em đâm ra lúng túng, nản chí hoặc bị ngộ nhận tai hại về lâu về dài.
Đối với lứa tuổi này, những chuyến đi dạo công viên, nghỉ mát giữa thiên nhiên bao la trong lành là những dịp giúp các em mở rộng tâm tình và óc tò mò đến những khái niệm tốt lành, đẹp đẽ, dễ thương. Âm nhạc cổ điển hoặc hòa tấu cũng giúp một phần quan trọng để giúp các em hình thành sự nhân ái dịu dàng.
Về mặt sinh hoạt, các em bắt chước người lớn rất nhanh, cộng thêm trí tưởng tượng đang hình thành khá phong phú để tự bày ra các trò chơi như: xây nhà, nấu bếp, dọn hàng, ru búp bê, và có thể cứ thế mà chơi một mình rất lâu, ngày này qua ngày kia không biết chán...
Về mặt tôn giáo, các câu truyện cổ tích giữ một vai trò quan trọng. Các tính cách nhân ái, thật thà, hiếu thảo nơi các nhân vật trạc tuổi các em sẽ đặc biệt được ghi sâu trong tiềm thức, dần dần mở ra cho tính cách tôn giáo hướng thượng nếu người lớn biết giúp đỡ các em.
Tâm lý trẻ từ 1 đến 3 tuổi

Nhà trẻ là môi trường xã hội đầu tiên có thể giúp trẻ làm quen với các bạn cùng lứa tuổi.
Trẻ từ 1-2 tuổi, lúc đầu còn bắt chước âm thanh của người lớn, sau dần dần biết biểu lộ ham muốn, nguyện vọng riêng của mình. Đặc biệt, năm thứ 2, ngoài mẹ ra, đứa trẻ bắt đầu chú ý đến người khác. Đến lúc trẻ biết đi, biết chạy thì bắt đầu biết ghen, biết đối lập với người khác, bắt đầu “biết nói không”.
Ở tuổi lên 3, trẻ bắt đầu tập hiểu ngôn ngữ của người lớn và tập nói, diễn đạt suy nghĩ của mình để đến 6 tuổi, trẻ có đối thoại thực sự.
Về trí nhớ: có thể phân biệt 3 giai đoạn phát triển:
  • 1 tuổi: Trí nhớ về xúc cảm
  • 2 tuổi: Trí nhớ về hình ảnh, sự vật
  • 3 tuổi: Trí nhớ về vận động. Trẻ nhớ đồ vật, hành động, nhờ vậy trẻ có khả năng hành động tự phục vụ.
Tuy nhiên, các loại trí nhớ trên đều là trí nhớ không chủ định cần được định hướng cho tốt.
Về mặt xúc cảm-tình cảm: bắt đầu xuất hiện những mâu thuẫn giữa người lớn và trẻ.
  • 1 tuổi: trẻ đang trải qua giai đoạn chuyển tiếp từ sữa sang ăn dặm, ăn bột, cháo rồi tới cơm nên vừa có cảm giác khó chịu vì không còn được bú sữa lại vừa được tiếp xúc với cái thìa mới lạ. Bố  mẹ đừng quên là trẻ rất thích được động viên khen ngợi khi làm được một việc gì, dù nhỏ đến đâu chẳng hạn tự xúc cơm ăn một mình không rơi vãi chẳng hạn.
  • 2 tuổi: trẻ đã biết dành bố hoặc mẹ cho mình, cố tình làm ngược lại những điều được dạy bảo. Các bà mẹ cần lưu ý để không cho là con mình “khó dạy” đặc biệt hơn những trẻ khác.
  • 3 tuổi: sang tới tuổi lên 3 thì đỡ hơn. Bây giờ bé thường thích nghe kể chuyện và cũng ưa kể chuyện. Các bé rất nhạy bén và dễ thương đối với cha mẹ.
Thời kỳ 1-3 tuổi là thời kỳ thăm dò thế giới xung quanh để trẻ dễ thích nghi với cuột sống. Nắm được đặc điểm tâm lý của trẻ, các bà mẹ sẽ có thể tổ chức một nếp sống hài hòa giữa ngủ, ăn uống, các 
Tâm lý lứa tuổi thiếu nhi (7 - 11 tuổi)
Thiếu nhi là giai đoạn mà các nhà chuyên môn gọi là Troisième Enfance, lứa tuổi bắt đầu theo học Tiểu học, hoặc còn gọi là Phổ thông cơ sở cấp 1. Đây cũng là lứa tuổi mà những ai thật sự muốn dấn thân trở thành người cộng tác mật thiết với gia đình các em để chăm lo việc giáo dục cho các em, nhất là cha mẹ và các thầy cô giáo, rất cần quan tâm tìm hiểu.
Do vậy, chúng ta sẽ xem xét vấn đề chi tiết và sâu xa hơn với từng đặc điểm của lứa tuổi này:

1. Mang đậm mặc cảm Edipe
2. Tin tưởng người lớn tuyệt đối
3. Ôm ấp nhiều mơ mộng
4. Rất đa cảm, dễ xúc động
5. Rất hiếu động
6. Có thể trung tín đến cùng

__________________________________________
1. Các em mang đậm mặc cảm Edipe:
Tự bẩm sinh, các em đã mang mặc cảm Edipe ( le complexe d’Edipe ). Thần thoại Hy-lạp kể rằng: Edipe, do cuộc đời oan nghiệt đưa đẩy, đã ngộ sát cha mình là Laios để lên ngôi vua và cưới luôn mẹ là Jocaste làm hoàng hậu... Các nhà Tâm lý học mượn điển tích này để diễn tả hiện tượng tâm lý bẩm sinh phổ biến nơi lứa tuổi thiếu nhi.

Các em luôn tìm sự gần gũi, yêu thương, chiều chuộng của người lớn khác phái: bé gái gần bố mà xa mẹ, còn bé trai lại gần mẹ xa bố. Đây không phải là một tội lỗi ghê gớm đáng lên án và nghiêm phạt như cách nghĩ thiển cận của một số người chủ trương đạo đức quá khắt khe cổ hủ.

Cần phải biết khéo hướng dẫn để giúp các em từ từ nhận ra sự cần thiết phải có đủ các tính cách giáo dục qua cả bố lẫn mẹ, anh và chị trong gia đình, cả thầy lẫn cô ở trường, ở lớp. Sau này, khi bước vào tuổi dậy thì, các em sẽ dần dần chuyển hóa sang thế quân bình về phái tính.

Nếu người lớn quá khắc nghiệt hoặc lơi lỏng thiếu quan tâm, có thể sẽ gây ra nơi các em những ấn tượng lệch lạc, di hại suốt đời các em về mặt nhân cách tâm lý và ứng xử. Ngược lại, cần bắc một nhịp cầu hết sức tế nhị để gặp gỡ chính tâm hồn bé bỏng non nớt của các em, biết mở chuyện hỏi han các em bằng ngôn ngữ và cung cách của chính các em. Khi đó, các em mới dễ bộc lộ một cách hồn nhiên những tâm sự, những "bí mật" có khi rất ngô nghê của các em, mà không hề e dè, giấu giếm, sợ người lớn la rầy, kết tội hoặc chế giễu.

Ở điểm này, các em cần có người yêu thương, chăm sóc, ân cần tận tụy và tinh tế nhạy cảm, nắm bắt cho được mọi biểu hiện tích cực lẫn tiêu cực nơi các em. 
2. Các em tin tưởng người lớn tuyệt đối:
Các em đã dần dần không còn muốn loanh quanh luẩn quẩn ở xó nhà góc bếp, nhưng bắt đầu thích làm quen nhiều bạn nhỏ và nhiều người lớn khác. Vì vậy, nếu các em nhận ra nơi các người lớn như cô chú, thầy cô giáo, anh chị... một sự bảo bọc chở che, nhất là sự quan tâm, cảm thông thật sự, các em sẽ dần dần quấn quít, tin cậy
đến mức tuyệt đối.

Hãy tránh đừng bao giờ đùa chơi với các em bằng cách xí gạt để các em mắc lừa cho vui. Cũng đừng bao giờ tạo cho các em cảm tưởng bị người lớn áp đặt, ăn hiếp, lấn lướt, sai bảo vặt và khống chế các em bằng luật lệ mà chính người lớn chưa chắc đã tuân thủ đàng hoàng.

Do vậy, thông qua những hoạt động về giáo dục, làm việc, sinh hoạt vui chơi, người lớn cần biết tạo ra cơ hội để gần gũi các em, xóa bỏ mọi ngăn cách về tuổi tác và tâm lý, hòa mình trở nên đơn sơ như trẻ nhỏ, biết cách gợi ý tổ chức cùng chơi, cùng làm với các em, từ đó mới có dịp để giúp đỡ, dạy dỗ các em một cách đầy đủ và kịp thời. Bên cạnh đó, cũng cần kích thích cho các em luôn háo hức chịu làm quen thêm với nhiều bạn trai bạn gái mới đồng trang lứa ở trường lớp và khu xóm.

Ở điểm này, người sống với các em phải là một quản trò đa năng, biết biến báo, lôi cuốn, trang bị nhiều kỹ năng thành thạo, thu hút được đám đông các em, đồng thời lại có vốn liếng kinh nghiệm về tâm lý để có thể tiếp cận mà lắng nghe và đối thoại với từng em. 
3. Các em ôm ấm nhiều giấc mơ:
Các em rất giàu trí tưởng tượng, nhiều khi quá tin vào những điều huyền hoặc, những truyện cổ tích thần tiên, những truyện thần thoại dân gian được kể trong các lớp học hoặc trước khi đi ngủ buổi tối. Từ đó các em tự thêu dệt những mơ mộng rất dễ thương đến bất ngờ.

Sau này, lớn hơn một chút, tính thần thoại chuyển dần sang khía cạnh thần tượng hóa một cách đơn giản. Khi các em được tiếp xúc thân tình với một người lớn nào đó có nhân cách cao thượng, các em sẽ nhanh chóng hình thành các ước mơ sẽ có được nhân cách ấy (ví dụ: "Lớn lên em sẽ làm cô giáo như cô..."; "Mai mốt con sẽ đi tu
như cha..."; "Em sẽ là một Ronaldo của Việt Nam..." ).

Do đó, nếu người lớn biết khéo nương theo trí tưởng tượng và những mơ mộng hồn nhiên trong sáng của các em, có thể hướng dẫn các em dần dần gạn lọc đi những nét viễn vông huyền hoặc để chuyển những giá trị tốt đẹp hiện thực nơi nhân cách các em.

Bước đầu thấu hiểu được những nhu cầu khát vọng ngây thơ của các em rồi, vẫn chưa đủ, bởi tính khí các em luôn bị đột biến, thay đổi hoặc bị tổn thương. Do vậy, ngoài việc hòa mình cùng chơi, cùng trò chuyện với các em, người lớn còn cần khéo léo tạo sức thu hút lâu dài bền bỉ, bằng cách lồng các hoạt động tập thể vào các trò chơi (học và làm mà là chơi, chơi mà lại là học và làm một cách hữu ích ).

Đồng thời, cũng đừng quên tiếp xúc riêng từng em, giúp các em tập nỗ lực nho nhỏ để vươn lên trong từng khát vọng, từng ước mơ hồn nhiên của chính mình, mỗi ngày một chút theo phương pháp giáo dục tiệm tiến.
Ở điểm này, người sống với các em phải là một người bạn trẻ trung, tâm huyết, đáng tin cậy trong mọi mặt sinh hoạt vui nhộn cũng như tâm linh sâu lắng của các em. 
4. Các em rất đa cảm, dễ xức động:
Tâm hồn các em còn hết sức trong sáng hồn nhiên như trang giấy còn mới tinh. Ngay cả trường hợp một số em phải chịu những di chứng do sự đổ vỡ trong gia đình, thì chắc chắn tâm hồn các em vẫn luôn luôn đa cảm, rất dễ bị xúc động.

Do đó, bất cứ hành động thô bạo nào đối với chính bản thân các em, đối với các em khác, đối với súc vật và đối với thiên nhiên đều gây tổn thương nơi các em, để lại trong tâm trí các em vết sẹo không bao giờ phai nhạt. Cần tránh cho các em phải đối mặt với những nghịch cảnh và bất hạnh, những thực tế quá phũ phàng, những hình ảnh dã man bạo lực trên sách báo, truyền hình, những biến cố quá gay cấn ngoài đường phố, trong gia đình, nơi trường học.

Riêng với các câu truyện kể, cần nhớ rằng: một nội dung quá bi lụy thương tâm có thể gợi ra nơi các em lòng trắc ẩn nhân ái, nhưng cũng có thể âm thầm hình thành trong tiềm thức và vô thức của các em tính hiếu chiến, hiếu sát, thích trả đũa, nhẫn tâm, hoặc ngược lại, sự mủi lòng ủy mị, mau nước mắt vì quá sức đa sầu đa cảm. Mặt khác, bên cạnh sự đa cảm, các em vẫn còn thiên nhiều về giác quan, thích sờ tận tay nhìn tận mắt, nên các em rất vui thích khi được thưởng cụ thể bằng vật chất hơn là khen ngợi tuyên dương suông suông vậy thôi. Các em rất hãnh diện thấm thía khi được người lớn khéo léo góp ý khích lệ hơn là phê bình chê trách hay nổi cáu lên quát tháo om sòm.

Chúng ta thấy, nhà trường đã từng áp dụng những cách khen thưởng khá cụ thể như các bông hoa điểm 10 cho từng môn học, sách truyện làm phần thưởng cuối năm. Bản thân chúng ta khi còn bé, hẳn ai cũng đã từng ao ước hoặc hãnh diện khi thấy tên mình được ghi trên Bảng Danh Dự treo tại một nơi trang trọng và dễ thấy ở trường. Còn Sổ Học Bạ hoặc Sổ Liên Lạc thì không ai muốn cha mẹ mình lại phải đọc thấy những giòng chữ thầy cô chủ nhiệm phê xấu và yếu kém. Do vậy, đây là những cách khen thưởng có vẻ vật chất nhưng lại hàm ý về chiều sâu tinh thần nhiều lắm...

Ở lứa tuổi này, người sống với các em phải là một "bề trên" hiểu theo nghĩa rộng nhất, nghiêm minh mà quảng đại, công bình mà bao dung, vẫn luôn đòi hỏi cao mà lại biết khích lệ nâng đỡ. 
5. Các em rất hiếu động:


Năng lực ở độ tuổi đang tăng trưởng nơi các em luôn dồi dào. Bên cạnh đó, các em cũng đang trải qua một cơn khủng hoảng về trí tuệ, còn gọi là khủng hoảng về ý thức cử động ( idée motrice ).

Về mặt sinh hoạt thể lý, các em, kể cả các bé gái, cần phải luôn tay luôn chân, chạy nhảy, leo trèo, nô đùa và hò hét thỏa thích, hoặc im lặng ngồi táy máy, hì hục nghịch phá một trò nào đó, hay làm một việc gì đó vừa sức mình. Riêng bên nam, các em rất thích các trò chơi đối kháng, mang tính giao chiến và đua tranh giữa hai phe (ví dụ: kéo co, cướp cờ, đánh trận giả...). Các em sẵn sàng chơi hăng say hết mình, bởi đối với các em, chuyện thắng thua rất là quan trọng, nó nhằm mục đích tự khẳng định cá tính cho dù các em chưa đủ lý luận cao xa gì lắm về bản thân. Với các em nữ, vấn đề cũng tương tự như khi các em đặc biệt thích các trò chơi tuy nhẹ nhàng hơn con trai, nhưng cũng là chuyện luân phiên thi đua giành phần thắng cho mình (ví dụ: nhảy cò cò, đánh chuyền, nhảy lèo, chơi ô ăn quan...).

Trong thực tế, người lớn đang bận việc, rất ghét sự ồn ào náo động, lại cho rằng các em đang chơi những trò quá hiếu động, có hại về sức vóc lẫn tâm lý, nên thường la rầy ngăn cấm các em. Người lớn không ngờ đã đẩy các em sớm rơi vào tình trạng dồn nén, có thể tạo ra những tình cảm rối loạn, rất có hại về lâu về dài.

Về sinh hoạt học tập, các em cũng rất dễ hào hứng để cho cuốn theo các ý tưởng, các kiến thức lý thú mới lạ, để không ngừng đặt ra các câu hỏi tò mò thắc mắc. Một khi nơi các em lý trí bắt đầu hoạt động âm thầm, các ý tưởng như thế dần dần sáng tỏ ra, cho dù các em chưa thể lý luận suy diễn theo dạng đặt vấn đề "vì vậy", "cho nên", "do đó" như người lớn... Nhưng mặt khác, các em đã không còn thỏa mãn với dạng câu hỏi "tại sao?" mà đã chuyển dần sang câu hỏi khó hơn nhiều: "làm thế nào ?" tức là có khuynh hướng khách quan hơn, sâu xa hơn.
Dù vậy, các em chưa thể tập trung tư tưởng lâu để kịp phân tích vấn đề và quan sát một cách kiên nhẫn, các em cũng chưa thể tự mình biết cách học hỏi sao cho đúng mức nếu không được người lớn hướng dẫn dưới dạng "học mà chơi" đầy hấp dẫn.

Ở điểm này, người sống với các em phải là một thầy giáo, một cô giáo vừa có kiến thức quảng bác, lại vừa có tâm hồn sâu sắc để truyền đạt tri thức, gợi mở sáng kiến và nhất là vun đắp cho các em những tâm tình nhân ái vị tha, vui tươi và dễ thương, đúng với độ tuổi các em.

6. Các em có thể trung tín đến cùng:

Khi gặp một hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong một trường hợp bất ngờ, nếu các em được người lớn tin cậy trao phó một trách nhiệm quan trọng nào đó, với lời giải thích kỹ lưỡng và căn dặn chi tiết, các em sẽ hết sức ý thức về công việc, cảm thấy vinh dự và hãnh diện để cố gắng chu toàn hơn cả mong đợi của người lớn. Ấn tượng sâu sắc này sẽ theo các em suốt cuộc đời, hình thành một nhân cách khó gì có thể làm biến dạng.

Hiểu được điều này, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy các phong trào giáo dục đứng đắn trên thế giới đều có những nghi thức tập tục rất long trọng như đội mũ, trao cờ, tuyên hứa thiếu nhi, thắt khăn quàng, gắn sao...

Tại trường học, có nơi, nếu biết huấn luyện tinh thần và kỹ thuật tới nơi tới chốn, người lớn có thể tin tưởng giao phó cho các em ở các lớp tiểu học đảm nhận chuẩn bị âm thanh, xếp đội hình danh dự, kéo cờ, bắt nhịp và đồng ca bài quốc ca v.v... mà không sợ gặp sự cố trục trặc, bởi các em ý thức khá chững chạc về tính cách quan trọng và trang nghiêm của công việc cùng với niềm hãnh diện được đại diện cho toàn trường.

Như vậy, ở điểm này, người sống với các em phải là một Người Lãnh Đạo (leader) đúng nghĩa, biết cách huấn luyện, chỉ dẫn cho các em thành thạo, tháo vát trong các việc nhỏ, vừa tầm hiểu, vừa sức làm của các em mà lại có tầm quan trọng không thua gì việc của người lớn, sau đó, biết mạnh dạn tin
Tâm lý trẻ khi cha mẹ ly hôn

Cha mẹ bất hoà luôn luôn ảnh hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ về mặt tâm lý. Sự bất hoà của cha mẹ kéo theo nhiều hư hại nơi bản thân đứa trẻ. Những cảnh cãi vã nhau, những câu chì chiết, những câu chửi hay những lần đánh nhau trước mặt trẻ lúc nào cũng có hại chứ không được một lợi lộc nào.
Sự bùng nổ bất hoà trong gia đình là một đề tài của sự lo âu đối với đứa trẻ: không biết người ta còn lo cho mình nữa không? Ai sẽ là người đảm trách việc này? Đứa trẻ tự cảm thấy bị đẩy đưa trong một không khí bất an nơi mà người ta coi chúng như là một vật bung xung để tranh dành tình cảm và quyền lợi tài chính để có được một số quyền hạn thăm viếng hay trợ cấp để nuôi chúng. Cha mẹ hiềm khích nhau trong quan điểm giáo dục con mình, người này phê bình quan điểm người kia, rồi phủ lên trẻ những phương pháp giáo dục riêng của mình; hay trái lại một người đóng vai làm người tốt trong sự nhượng bộ để cho đứa trẻ có cảm giác rằng nó đã bị người đó bỏ rơi nó.

Sự thích nghi với một hoàn cảnh mới là một điều mà đứa trẻ phải được thuyết phục. Tình anh em phải bị chia xẻ, chọn lựa một trong hai người cha hoặc mẹ, thường là người không rời xa gia đình. Nhưng đôi khi chính người vắng mặt là người được người ta lý tưởng hoá nhiều nhất.

Trong tất cả các trường hợp, cha mẹ phải giải thích rõ ràng cho trẻ biết hoàn cảnh sắp đến với gia đình, không nên im lặng theo điều mình tự nhủ “rồi đứa trẻ sẽ nhận ra”. Họ cần phải nói chuyện, trấn an, giải thích cho trẻ là sẽ chẳng bỏ rơi chúng, tương lai của chúng luôn được đảm bảo và định rõ chúng sẽ sống với ai. Sau cùng chúng phải được bảo đảm rằng chúng không có một chút trách nhiệm nào trong việc ly hôn của cha mẹ. Những gì tự nhiên đối với cha mẹ là không tự nhiên đối với đứa trẻ, cũng như nhiều sự bất đồng của cha mẹ có khởi điểm là những vấn đề giáo dục.

Những cuộc nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến trẻ em trong gia đình xảy ra tình trạng ly hôn đã đuợc ghi nhận rằng các khó khăn về tâm lý của chúng tự nó dịu đi trong thời hạn một vài năm sau việc ly hôn. Đây là một tình cảm không được an toàn hay bị bỏ rơi, một mối lo sợ hay một mặc cảm tội lỗi. Đứa trẻ tự kết tội mình có phần nào trách nhiệm về sự chia ly của cha mẹ. Sự buồn bã, sự suy nhược, sự cách ly, sự mất ngủ, những cơn ác mộng và những nỗi sợ hãi ám ảnh ban đêm, sợ bóng tối... đều có khả năng chế ngự đời sống tinh thần đứa trẻ. Kết quả học tập cũng có phần sút giảm. Các xáo trộn của tính tình cũng được ghi nhận như sự mất quân bình, sự xung đột, những cơn giận. Đôi khi đứa trẻ chuyển sự thô bạo trong gia đình sang những quan hệ xã hội, mà một số cuộc nghiên cứu đã thiết lập mối quan hệ giữa sự bất hoà của cha mẹ và thái độ không thích nghi với xã hội của những đứa con. Trong những trường hợp khác, chúng chọn thái độ của một người lớn trưởng thành sớm: chúng đảm nhận nhưng không biết chơi với những người cùng thời với chúng. Cảm giác trưởng thành sớm so với tuổi thơ ấu có thể là lý do xung đột ở tuổi vị thành niên vì đứa trẻ vượt quá giai đoạn và đã đạt được một sự tự chủ lớn, trừ phương diện tài chính.
Một đứa trẻ có khiếu nghĩa là gì?
Về mặt lý thuyết, trẻ em có tài học một mình ở lớp. Với sự đòi hỏi kiến thức mãnh liệt, chúng tiếp thu nhanh như bọt biển, làm cho cha mẹ hài lòng với những khả năng về tri thức. Ai cũng dễ dàng nhận ra rằng mấy năm đầu đi học trẻ có khiếu được tô điểm bằng kết quả học rất tốt. Trong lúc được tưởng thưởng rất nhiều, trẻ em có khiếu và gia đình chúng cũng phải đối đầu với những thách thức. Mặc dù trẻ có khiếu có khuynh hướng học tốt ở trường nhưng cũng gặp nhiều khó khăn trong lớp cũng như ngoài sân chơi. Là phụ huynh của một trẻ có khiếu, bạn phải biết cách cư xử và điều chỉnh con mình trong trường học và ngoài đời sau này. Hãy nhớ rằng - bạn là người ủng hộ nhiệt tình và mạnh mẽ nhất của con mình. Bằng cách đồng hành với những tình huống của con mình ở trường cũng như cuộc sống xã hội, cần phải điềm đạm can thiệp khi cần thiết, bạn có thể giúp và bảo đảm cho con mình những năm đầu đi học hạnh phúc, hữu ích và điều đó sẽ làm thỏa mãn tiềm năng lớn lao của nó.
Con bạn có khiếu không?

Theo Hiệp hội Quốc gia Phát hiện trẻ em tài năng của Mỹ (NAGC), trẻ có khiếu biểu hiện hoặc có tiềm năng đưa ra những thành tựu khác thường, ít nhất là trong một lĩnh vực nào đó như nghệ thuật, âm nhạc, ngôn ngữ và toán học. Thường thì trẻ có khiếu không những học dễ dàng hơn và hiểu sâu hơn những trẻ em cùng lứa tuổi, mà còn tiến bộ rất nhanh. Ở Mỹ, khoảng 3 triệu trẻ em (khoảng 5% trẻ mẫu giáo) được xem là có ít nhất một tài năng lớn nào đó. Kết quả đó được công bố sau khi những em này đã qua kỳ sát hạch dựa trên những tiêu chuẩn phát hiện tài năng của chính phủ liên bang. Mặc dù một số trẻ có dấu hiệu có khiếu trước tuổi mẫu giáo - có khiếu về ngôn ngữ, biết đọc sớm hay có khả năng bất thường với các con số - nhưng nhiều trẻ lại không có dấu hiệu có khiếu mãi cho đến khi vào tiểu học. Nếu bạn hoặc một giáo viên nào đó nghĩ rằng con mình có khiếu thì hãy mang bé đến một nhà tâm lý trẻ em, một chuyên gia chăm sóc sức khỏe tâm thần chuyên đưa ra những cuộc trắc nghiệm và đánh giá việc thực hiện đó, đánh giá khả năng của nó. Cách đây nhiều năm trẻ em có chỉ số 130 trở lên khi được trắc nghiệm IQ được xem là có khiếu; nhưng ngày nay, tiêu chuẩn này không ấn định là có khiếu hay không. Trẻ em phải trải qua hàng loạt các cuộc trắc nghiệm khi phụ huynh và thầy cô phát hiện được. Nhưng có cái mác "Có tài", "học giỏi" vẫn chưa phải là chiếc vé thành công ngay ở trường. "Chúng ta dán cho đứa trẻ cái mác có tài ở trường thực ra đó chỉ là một phương pháp để nhận dạng, là cách thông báo rằng đứa trẻ này đang cần một cái gì đó khác hơn", Peter Rosenstein, Giám đốc điều hành Hiệp hội Quốc gia Phát hiện trẻ em tài năng của Mỹ cho biết như vậy. Ðể phát hiện xem con mình có khiếu hay không, hãy xem bài những dấu hiệu phát hiện tài năng ở trẻ em dưới 5 tuổi và những dấu hiệu phát hiện tài năng ở trẻ em trên 5 tuổi.
Nhà trường xử lý trường hợp trẻ em có khiếu như thế nào?
Ở những quốc gia phát triển, chính phủ có ngân sách riêng để nghiên cứu và giúp trẻ có khiếu phát triển.
Ta thường thấy những em có khiếu rất nỗ lực ở trường trong việc học. Thực tế cho thấy có nhiều em buồn chán nếu chương trình học quá dễ, đôi lúc chúng đi chệch hướng và xuống dốc, hoặc có thể trở nên thụ động. Thậm chí có một số em được người ta đánh giá là học sinh cá biệt vì tính hiếu động của chúng. Trẻ em có khiếu thường cảm thấy bị các bạn học xa lánh và có thể trở thành mục tiêu cho bạn bè cùng trang lứa chọc ghẹo. Chỉ những giáo viên giỏi mới nhận ra một em "học sinh cá biệt" nào đó có khả năng đặc biệt thật sự.
Làm gì để giúp trẻ có khiếu?
Nếu bạn phát hiện ra con mình có khiếu, hãy hẹn gặp nói chuyện với giáo viên của con mình, với một chuyên gia hay với chính Hiệu trưởng trường con bạn học. Nhưng trước khi gặp, bạn phải biết rõ các khả năng của con mình, tức là đã từng so sánh khả năng của cháu với những đứa bình thường khác. Nếu có dịp làm trắc nghiệm thì phải biết các cuộc trắc nghiệm cháu đã thực hiện và cách thực hiện các cuộc trắc nghiệm. Như vậy bạn mới có thể nói một cách chi tiết về những điểm mạnh, điểm yếu có liên quan. Có điều kiện thì rất nên tìm hiểu về những chương trình có sẵn cho con mình ở trường và ở ngoài, trong nước cũng như nước ngoài.

Xác định năng khiếu của trẻ như thế nào?
Chỉ khoảng 1% trẻ em thuộc diện thiên tài, trong khi tỷ lệ được xếp là có năng khiếu chừng 15-20%. Năng khiếu đó có thể là tư duy thần đồng trong một môn học, nhưng "gà mờ" ở các môn khác, hoặc giỏi toàn diện, hoặc thậm chí là những biểu hiện bất thường, khó bảo... Việc xác định đúng kiểu năng khiếu sẽ quyết định lớn đến cơ hội thành công của trẻ trong tương lai.
Các nhà tâm lý hiện đánh giá năng khiếu như một khái niệm mang tính điều kiện và tạm thời. Tính điều kiện thể hiện ở chỗ có rất nhiều điểm (nếu như không nói là tất cả) phụ thuộc vào việc đứa trẻ có năng khiếu sẽ phát triển khả năng của mình như thế nào, liệu gia đình có sẵn sàng ủng hộ những say mê của trẻ hay không. Ví dụ, một đứa trẻ được nuôi dạy và lớn lên trong một gia đình nhạc sĩ sẽ có nhiều khả năng trở thành một nhạc sĩ sau này hơn rất nhiều so với một đứa trẻ mà cha mẹ không liên quan gì đến âm nhạc. Tính tạm thời của khái niệm này là ở chỗ, năng khiếu có thể được bộc lộ ở những thời điểm khác nhau của cuộc sống, có thể từ lúc nhỏ, hay cũng có thể vào lúc đã trưởng thành. Như Albert Einstein, lúc nhỏ nếu được các chuyên gia tâm lý hiện đại kiểm tra, có lẽ được xếp vào... loại kém, do cậu biết nói khá muộn, thành tích học tập không tốt và thậm chí từng bị đuổi vì học kém. Trong khi nhiều thiên tài khác như nhà vật lý - lý thuyết Liên Xô Lev Landao, người sáng lập ra ngành điều khiển học Norder Viner… lại có năng khiếu được bộc lộ từ khi còn nhỏ.
Trí tuệ phân biệt và trí tuệ bao quát
Theo phó giám đốc Viện Tâm lý học Nga Serguey Maly, hiện có tới hơn 100 định nghĩa khác nhau về năng khiếu, cho dù tất cả chúng đều không có được tính khái quát đầy đủ và cũng không thể làm hài lòng tất cả các chuyên gia tâm lý, sư phạm. Tiêu chí chính của tài năng là nhu cầu kiên trì của đứa bé trong một công việc trí tuệ phức tạp nào đó. Đó có thể là mong muốn giải được những bài toán khó, làm thơ hay soạn thảo ra một chương trình máy tính mới…
Ở độ tuổi học phổ thông, năng khiếu đôi khi không liên quan trực tiếp đến thành tích học tập tốt. Nói đơn giản hơn, đây là một kiểu năng khiếu trí tuệ riêng biệt. Trẻ thuộc loại này thường có khuynh hướng thích tự mình nghiên cứu sâu và mở rộng kiến thức trong lĩnh vực mình quan tâm, có khả năng tư duy một cách triết lý với những gì đã được đọc. Tuy nhiên, mối quan tâm đối với một lĩnh vực hoạt động thường dẫn tới việc trẻ có thành tích xuất sắc trong một số môn học, trong khi vẫn “bình thản” đón nhận điểm kém ở những môn khác. Nhưng chính những trẻ loại này mới có nhiều khả năng trở thành những nhà khoa học tiềm năng, người sáng tạo ra những ý tưởng mới, có khả năng tạo ra những phát minh đáng kể.
Một số loại khác lại có năng khiếu thuộc loại trí tuệ bao quát. Trong trường hợp này, khả năng của chúng thể hiện rõ nhất trong quá trình học tập. Việc học đối với chúng rất thoải mái, hầu như không có chút khó khăn nào - đối với bất kể môn gì. Những học sinh thuộc loại “luôn được khen thưởng” này có nhiều khả năng trở thành những chuyên gia tốt trong tương lai.
Các loại năng khiếu khác
Có một dạng năng khiếu nữa có thể dễ dàng dự đoán - đó là năng khiếu về nghệ thuật. Nó thể hiện trong mối quan tâm của trẻ đối với những loại hoạt động sáng tạo như âm nhạc, khiêu vũ, hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…
Kiểu năng khiếu thứ tư là năng khiếu sáng tạo. Nó được thể hiện trong cách suy nghĩ khác với thông thường, cách nhìn đặc biệt đối với thế giới, khuynh hướng muốn dựng nên những dự án riêng. Trẻ thuộc loại này thường hay gây xung đột, khó bảo, có tính độc lập trong những quyết định của mình và thường phớt lờ các nguyên tắc. Ví dụ như chúng có thể tới lớp với bộ quần áo nhàu nát, sách vở ghi chép lộn xộn… Ở những học sinh loại này thường dễ dàng nhận thấy khuyết điểm, trong khi những khả năng sáng tạo của chúng thường chỉ được xác định sau quá trình khảo sát của một chuyên gia tâm lý. Để làm rõ được năng khiếu này, cần phải đưa ra một hoạt động cho phép tính tự chủ: ví dụ một bài văn có chủ đề khác thường hay một giải pháp kỹ thuật nào đó.
Kiểu năng khiếu tiếp theo có thể dễ dàng nhận thấy, nhưng thường không được dễ dàng chấp nhận - đó là năng khiếu về xã hội (năng khiếu chỉ đạo). Kiểu này có đặc trưng là khả năng hiểu được mọi người, biết cách thiết lập những mối quan hệ xây dựng với họ, lãnh đạo họ. Năng khiếu lãnh đạo cần phải có một mức độ trí tuệ đủ cao, một trực giác phát triển và khả năng đồng cảm. Cũng có những “thủ lĩnh tình cảm” luôn là nơi trút bầu tâm sự của mọi người, trong khi cũng có những thủ lĩnh của hành động. Họ biết cách đưa ra những quyết định đúng, xác định mục tiêu và nhiệm vụ dành cho những người khác. Ở những học sinh có năng khiếu chỉ đạo, mối quan tâm với học hành thường không được cao. Do có tính cách mạnh mẽ và độc lập, chúng có thể dễ dàng công khai bỏ học hay được coi là con người hay gây gổ.
Dạng năng khiếu cuối cùng trong danh sách là năng khiếu động cơ tâm lý (thể thao). Theo một điều tra mới đây về các vận động viên nổi tiếng, nhận định về khả năng trí tuệ thấp của họ thường là không đúng. Ngược lại, đa số vận động viên đều có mức độ trí tuệ cao. Các nhà khoa học từ lâu đã chứng minh được mối quan hệ trực tiếp giữa sự phát triển của động cơ, tâm lý và trí tuệ. Không phải tình cờ mà trong số những vận động viên nổi tiếng còn có những nhà văn được thừa nhận, những thương gia thành đạt hay những nhà sư phạm tài năng. Những đứa trẻ có năng khiếu thể thao có thể thường xuyên học không tốt không phải do chúng không thể tiếp thu, mà đơn giản chỉ bởi chúng không có đủ thời gian cho việc học hành.
Phương pháp phổ biến nhất để xác định năng khiếu của trẻ chính là thử nghiệm, cho dù đa số chuyên gia cho rằng đây chưa phải là phương pháp hoàn thiện, do còn lệ thuộc nhiều vào việc xác định chỉ số thông minh (IQ) - loại thử nghiệm cho phép xác định tài năng qua việc so sánh độ tuổi của đứa trẻ với các khả năng trí tuệ của nó.
Khi một đứa trẻ hoàn thành được tất cả các bài tập dành cho lứa tuổi của nó, IQ của trẻ sẽ bằng 100. Nhưng nếu một cậu bé 10 tuổi giải được hết bài tập của lứa tuổi 14, hệ số IQ của cậu ta sẽ là 140 (14:10 x100). Do chỉ số này vượt hơn nhiều so với tiêu chuẩn, đứa trẻ hoàn toàn có thể được đánh giá thuộc loại có tài năng. Theo các kết quả thống kê, IQ thường cao hơn ở những trẻ được sinh ra và giáo dục trong những gia đình cha mẹ có học thức cao và làm nghề lao động trí óc.
Những bậc cha mẹ quan tâm đến con cái cũng có thể tự xác định kiểu năng khiếu của chúng. Điều này rất có ích cho họ trong việc đáp ứng được những động cơ trong hành vi của trẻ, giúp chúng có thái độ nghiêm túc đối với việc học tập ở hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, nếu đứa trẻ có một năng khiếu rõ ràng, không có gì là thừa nếu muốn biết tiềm năng - tức là độ sâu các khả năng của trẻ.
Phần lớn các phép thử hiện nay đều nhằm vào việc nghiên cứu những đặc tính nhất định của con người. Đối với những đứa trẻ trước khi đến trường, các phép kiểm tra thường dựa vào việc sử dụng các tranh ảnh và đồ chơi. Ví dụ, chuyên gia thử nghiệm cho đứa trẻ xem hai quả bóng giống nhau, sau đó bóp bẹp một quả bóng và hỏi trẻ hai vật có nặng bằng nhau không. Từ câu trả lời, có thể đưa ra kết luận về mức độ suy nghĩ logic của trẻ. Tất nhiên là đối với học sinh và người lớn, những phương pháp thử nghiệm phức tạp hơn được áp dụng. Người ta hiện phân chia ra 3 loại phương pháp chính: khả năng tập trung, trí nhớ và tư duy logic.
Phương pháp nghiên cứu khả năng tập trung đơn giản nhất được gọi là mẫu hiệu chỉnh. Người được kiểm tra được trao một tờ giấy mẫu có nhiều chữ cái khác nhau - 40 hàng x 40 chữ cái/hàng. Đứa trẻ cần phải xem kỹ các hàng chữ, gạch dưới những chữ đã có ở các hàng thứ nhất. Với thời gian quy định để làm việc này là 5 phút, mức độ chú ý trung bình đối với học sinh tiểu học là 550 chữ cái, trung học cơ sở là 700 và trung học phổ thông là 850. Còn phải kể đến phương pháp Munsterberg: một đoạn văn bản lẫn lộn các chữ cái có thể có nhiều từ khác nhau. Nhiệm vụ của người được kiểm tra là trong vòng 2 phút tìm và gạch dưới tất cả những từ này.
Các “công nghệ” đánh giá trí nhớ cũng có không ít. Một phép thử phổ biến được gọi là “trí nhớ thao tác”. Chuyên gia thử nghiệm sẽ đọc 10 hàng số, mỗi hàng có 5 số. Nhiệm vụ của người trả lời là ghi nhớ 5 số trong hàng vừa được đọc, sau đó trong đầu phải cộng nhẩm số thứ nhất với số thứ hai, số thứ hai với số thứ ba và cứ tiếp tục như vậy. Khoảng cách giữa mỗi lần đọc xong một hàng số là 15 giây. Mức trung bình đối với học sinh tiểu học là 20 số (tất cả có 40 đáp số), trung học cơ sở là 25 số và trung học phổ thông là 30 số. Nếu vượt qua được mức này, có thể nói học sinh đó có năng khiếu về toán.
Để đánh giá tư duy logic, người ta thường dùng phương pháp quan hệ về số lượng. Người được kiểm tra sẽ được giao 18 bài tập logic, mỗi bài có 2 tiền đề logic. Dựa vào chúng, cần phải xác định mối quan hệ giữa các chữ cái được gạch. Lấy ví dụ về một bài tập kiểu này: A lớn hơn B 9 lần, B nhỏ hơn C 4 lần. Vậy mối quan hệ giữa A và C là như thế nào?
Phương pháp thử nghiệm trên cơ sở bài trắc nghiệm hiện có rất nhiều, và kết luận của chúng thường dựa trên những thang điểm đã được định trước. Chính vì vậy, sai số và tính quy ước của những “phép đo trí tuệ” này tương đối lớn. Tuy nhiên, các bậc cha mẹ không nên bỏ qua dù là một phương pháp dự đoán được coi là kém hoàn thiện nhất: việc áp dụng một loạt các phương pháp khác nhau(theo logic hay độ tập trung) ở mức độ này hay khác đều có thể cho ta một khái niệm tương đối chính xác về năng khiếu của trẻ. Điều đó chắc chắn sẽ rất quan trọng đối với tương lai con em chúng ta
Làm gì khi con có năng khiếu?
Bạn vừa khám phá ra một điều thú vị rằng đứa con lên ba của mình thật sự có năng khiếu như bạn hằng mong đợi. Vậy nên làm gì? Ðừng tưởng bạn phải ghi danh cho cháu vào học ở một trường năng khiếu nào đó. Bạn có thể giúp con mình rất nhiều nếu để chúng ở nhà và học ở một trường bình thường.
Khuyến khích con bạn khi ở nhà
Khi con bạn có nhiều triển vọng và cháu bé sắp đến tuổi đi học, bạn nên cho cháu những bài tập để thử thách và khuyến khích cháu.
  • Nếu con bạn nói được một câu hoàn chỉnh, trả lời câu hỏi một cách đầy đủ, hãy trò chuyện với bé môt cách nghiêm túc, như nói chuyện với người lớn vậy. Trẻ con thông minh sẽ thất vọng nếu người lớn không trò chuyện với nó đúng mức.
  • Cho con bạn tham gia những trò chơi dành cho những đứa trẻ lớn hơn. Những trò chơi bình thường của các bạn cùng lứa có thể làm cho cháu thấy nhàm chán.
  • Khuyến khích con bạn đọc sách và đọc cho chúng nghe. Sách sẽ giúp trẻ rất nhiều trong việc khám phá thế giới xung quanh và suy nghĩ một cách sáng tạo hơn.
  • Cho chúng tiếp xúc với những vật dụng nghệ thuật mang tính sáng tạo như bút viết bảng, phấn, sách in khổ lớn, đất sét và những miếng xếp hình để giúp chúng phát triển khả năng sáng tạo nghệ thuật.
  • Ghi danh cho con mình học nhạc, vẽ hay học múa nhằm khuyến khích những năng khiếu bẩm sinh của chúng.
  • Dẫn con bạn vào phòng làm việc hay phòng đọc sách trong nhà, giúp chúng làm quen với thư viện nhỏ để trẻ có thể bộc lộ khả năng tiếp nhận thông tin nhạy bén của mình.
  • Mua cho cháu những đồ chơi có thể dạy chúng về chữ cái và số.
Làm thế nào để giúp trẻ hòa mình vào trường học?
Trường mẫu giáo là nơi có thể bổ sung và làm phong phú thêm các hoạt động ở nhà. Bạn phải trao đổi với giáo viên về con mình và có những yêu cầu đặc biệt để nó nhận được sự quan tâm tốt nhất. Nhiều cô nuôi dạy trẻ không chú ý lắm tới chuyện giúp trẻ con có năng khiếu phát triển khả năng của chúng. Vì vậy, bạn có thể yêu cầu giáo viên tạo một số điều kiện cho trẻ học hỏi như:
  • Cho con bạn tự lựa chọn những quyển sách nó thích. Nếu được, hãy yêu cầu nó đọc cho các bạn cùng nghe.
  • Khuyến khích, gợi ý chúng sử dụng các bộ đồ nghề bằng đồ chơi, những miếng bìa và các hộp cứng để tạo thành các vật thể khác nhau.
  • Làm tăng niềm hứng thú và say mê toán học của trẻ bằng cách cho chúng một cuốn sách bài tập hay những bài toán đặc biệt về vẽ các hình trong toán hình học.
  • Phát huy các sáng kiến của trẻ bằng cách cho chúng tự do sáng tạo nghệ thuật của riêng mình như vẽ tranh, cắt dán.
  • Sắp xếp cho trẻ nhận làm những công việc đặc biệt nào đó như viết một quyển sách, chuẩn bị cho một buổi diễn múa rối, cùng tham gia chương trình văn nghệ... chẳng hạn.
Giúp trẻ có khiếu giảm căng thẳng
Trẻ có khiếu thường cảm thấy căng thẳng trong suốt năm học. Nhiều em không hài lòng với những gì mình đã làm và đòi hỏi nhiều thời gian hoàn thành công việc của mình hơn những em khác. Một số trẻ có khiếu khác lại thường đề ra những mục tiêu phi thực tế vì có lẽ các em đánh giá quá cao những thành tựu các em đạt được vào thời điểm nào đó. Ðiều này làm cho chúng cảm thấy căng thẳng.

Ðể khỏi bị căng thẳng ngay từ đầu, việc quản lý thời gian là rất quan trọng. Hãy bắt đầu mỗi năm học với một kế hoạch hoàn hảo. Hãy cùng tính với con mình xem nó có bao nhiêu thời gian học ở trường, có bao nhiêu hoạt động ngoại khóa phải tham gia, và bao nhiêu giờ đi chơi với bạn bè, làm bài tập ở nhà và nghỉ ngơi. Hãy phác họa một quỹ thời gian thực tế cho mỗi ngày trong tuần. Không nên bỏ qua chuyện mua sắm. Nên soạn thảo kế hoạch hàng tháng, và đề ra mục tiêu mỗi ngày.
  • Nếu con bạn có dấu hiệu bị căng thẳng (hay đau bụng, nhức đầu hoặc kêu ca là không muốn đi học), hãy nói chuyện để nắm rõ tình hình và xoa dịu sự căng thẳng đó. Thường thì trẻ có khiếu quan tâm nhiều đến tình bạn và đời sống xã hội. 
  • Trẻ em cũng có dấu hiệu căng thẳng nếu ở trường chúng thấy buồn chán và đây không phải là sự buồn chán bình thường. Trẻ em có khiếu rất ham học nhưng một khi sự khao khát cao độ bị chặn đứng thì chúng cảm thấy thất vọng và những triệu chứng như trên sẽ xuất hiện. Nếu nhà trường không thể đáp ứng đủ nhu cầu học hành của con bạn, hãy tạo điều kiện cho bé học tập tại nhà. Ðăng ký cho cháu học những lớp học đặc biệt, tìm hiểu những chương trình hè dành cho trẻ em có khiếu ở Nhà thiếu nhi huyện, quận, thành phố... và cho nó hòa đồng với những trẻ có khiếu khác. Tất cả những biện pháp này sẽ giúp làm giảm căng thẳng cũng như nâng cao đời sống xã hội của cháu


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...