Hiển thị các bài đăng có nhãn Người già. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Người già. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 31 tháng 5, 2011

HƯỚNG DẪN DÀNH CHO NGƯỜI CAO HUYẾT ÁP

Cao huyết áp còn gọi là tăng huyết áp và khái niệm thường dùng trong dân chúng là bệnh tăng xông (tension)

Cao huyết áp là bệnh lý thuờng gặp trong cộng đồng và gia tăng theo tuổi. Chiếm 8-12% dân số.Một số yếu tố nguy cơ làm gia tăng nguy cơ cao huyết áp như tiều đường, thuốc lá, tăng lipid máu, di truyền.Cao huyết áp là bệnh lý gây tử vong và di chứng thần kinh nặng nề như liệt nữa người, hôn mê với đời sống thực vật, đồng thời có thể thúc đẩy suy tim ,thiếu máu cơ tim làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống ( không cảm thấy khoẻ khoắn, mất khả năng lao động) và gia tăng khả năng tử vong.Do đó điều trị huyết áp cao là vấn đề cần lưu ý trong cộng đồng vì những hậu quả to lớn của nó.
Ngày nay với sự tiến bộ về kỷ thuật chẩn đoán (máy đo huyết áp phổ biến rộng rãi) và càng có nhiều loại thuốc điều trị ít tác hại, việc điều trị đã mang đến cho bệnh nhân sự cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm đáng kể tử vong và các di chứng(liệt nữa người, suy tim) do cao huyết áp gây nên.
Người bệnh cao huyết áp cũng cần quan niệm rằng cần phải chấp nhận việc điều trị tốn kém lâu dài để đổi lấy một cuộc sống an toàn. Cao huyết áp thường không triệu chứng do đó nhiều người chỉ nhận ra bản thân họ bị cao huyết áp khi họ bị tai biến mạch máu não (còn gọi là đột quî). Không thể căn cứ vào triệu chứng nhức đầu, chóng mặt để uống thuốc hạ áp bởi vì nhức đầu, chóng mặt không phải thường xuyên xuất hiện khi huyết áp tăng cao đột ngột và các triệu chứng này có thể gặp ở bệnh lý khác( ví dụ nhức đầu do căng thẳng,viêm xoang, và chóng mặt có thể do tụt huyết áp...).Tốt nhất nên thường xuyên kiểm tra huyết áp định kỳ với những người chưa cao huyết áp và khi nghi ngờ cao huyết áp cần đo huyết áp nhiều lần .Nếu huyết áp vẫn cao thì nên bắt đầu biện pháp điều chỉnh cách sống(tập thể dục, cai thuốc lá, điều chỉnh chế độ ăn) và xem xét điều trị thuốc.
Huyết áp không phải là con số hằng địnhTrị số huyết áp thay đổi rất nhiều khi có yếu tố tác động như tâm lý(lo âu, sợ hãi, mừng vui...) vận động(đi lại , chạy nhảy) hoặc môi trường (nóng lạnh), chất kích thích(thuốc lá, càphê, rượu bia) và bệnh lý (nóng sốt, đau đớn).Trong những trường hợp trên, huyết áp thường tăng cao hơn bình thường.Ví dụ huyết áp của bạn lúc nghỉ thường 130/80mmHg khi bạn lên cầu thang lầu 3,nếu bạn đo huyết áp ngay thì trị số huyết áp của bạn có thể 150/80-180/90mmHg.Trong những trường hợp này không thể cho rằng bạn bị cao huyết áp.Do đó tốt nhất bạn phải nghỉ ngơi ổn định trước khi đo huyết áp nếu bạn muốn có trị số huyết áp trung thực và phải đo nhiều lần sau đó tính trung bình sau 3 lần đo.Bạn cũng đừng thắc mắc nhiều nếu huyết áp trước đó khác với trị số bây giờ.
Nhịp sinh học huyết áp của bạn thường dao động rõ rệt, huyết áp thường cao dần từ lúc bạn thức giấc và gia tăng tùy theo bạn vận động hoặc căng thẳng hay không. Vào chiều tối khi bạn nghỉ ngơi thư giãn huyết áp xuống nhẹ và sẽ xuống thấp nhất khi bạn ngủ say vào ban đêm cho đến gần sáng.Các nghiên cứu ghi nhận rằng ở người cao huyết áp mà huyết áp không hạ vào ban đêm hoặc hạ quá mức hoặc tăng vọt vào buổi sáng đều là yếu tố bất lợi vì dễ bị đột quî do cao huyết áp.
Khi nào gọi là cao huyết áp ?Người ta thường dùng khái niệm huyết áp tâm thu (hoặc huyết áp tối đa) cho trị số huyết áp trên và huyết áp tâm trương (hoặc tối thiểu) cho trị số huyết áp dưới.Ví dụ khi bác sĩ của bạn ghi huyết áp của bạn : 180/95mmHg tức là huyết áp tâm thu (hoặc tối đa của bạn là 180mmHg và huyết áp tâm trương (hoặc tối thiểu) là 95mmHg.
Khi trị số huyết áp tâm thu > 140mmHg và huyết áp tâm trương >90 mmHg được xem là cao huyết áp.Đối với người già, dạng cao huyết áp phổ biến là cao huyết áp tâm thu đơn thuần tức là chỉ số huyết áp tâm thu >160mmHg nhưng huyết áp tâm trương không cao(<90mmHg).
Ở trẻ em trị số huyết áp có thấp hơn quy ước của người lớn.
Cách đo huyết áp:Để có trị số huyết áp đúng, việc đo huyết áp là bước chẩn đoán quan trọng nhất vì tránh được việc điều trị quá mức hoặc không đầy đủ.Cần đo nhiều lần và nhiều vị trí khác nhau (2 tay, 2 chân) để so sánh đôi khi phát hiện bệnh lý mạch máu ví dụ như trong teo hẹp eo động mạch chủ huyết áp chi trên cao hơn chi dưới.
Đo huyết áp cần thực hiện trong phòng yên tỉnh, trạng thái tinh thần thoải mái.Tư thế đo huyết áp thông thường là tư thế nằm và ngồi để làm sao băng quấn cánh tay ngang mức với tim.Băng quấn cánh tay(cuff) phải phù hợp kích thứơc cánh tay. Trẻ em cần có băng quấn cánh tay kích thước nhỏ hơn.
Hướng dẫn đo huyết áp:Nên sử dụng máy đo huyết áp nào?Máy đo huyết áp thủy ngân được xem là tiêu chuẩn. Ngày nay người ta giảm dần việc sử dụng máy đo huyết áp thủy ngân vì độc tính với môi trường.Các loại máy dạng đồng hồ thường phổ biến sử dụng trong giới thầy thuốc,trong khi đó các máy đo huyết áp điện tử thường sử dụng rộng rãi trong dân chúng vì dễ đo.Theo Uỷ Ban phối hợp quốc gia về cao huyết áp Hoa Kỳ(JNC)ø và Tổ chức Y tế Thế Giới(WHO), đối với máy đo huyết áp điện tử, chỉ nên sử dụng loại băng quấn cánh tay,không nên sử dụng cổ tay và ngón tay vì không chính xác.
Bạn có thể chọn máy đo huyết áp đồng hồ hoặc có thể máy đo điện tử để tự đo huyết áp ở nhà. Máy đo huyết áp đồng hồ thường kèm theo ống nghe thường giá rẽ hơn máy đo huyết áp điện tử nhưng đòi hỏi bạn phải được nhân viên y tế huấn luyện cách đo . Đối với máy đo huyết áp điện tử ưu điểm là dễ sử dụng , nhưng nhược điểm là các máy tại thị trường Việt nam chỉ có số ít Hãng như Omron là được kiểm định theo tiêu chuẩn Anh Mỹ.Khi chọn máy đo huyết áp điện tử các bạn nên chọn các loại máy đo huyết áp đã được các tổ chức uy tín kiểm định chất lượng. Hiện nay 2 tổ chức có uy tín trong kiểm tra chất lượng máy đo huyết áp là Hiệp hội cao huyết áp Anh quốc (British Hypertension Society) và Hiệp hội Phát triển Dụng cụ y tế Hoa kỳ (Association for Advancement of Medical Instrumentation).
Sau đây là một số máy đo huyết áp điện tử được khuyên dùng:
Loại tự động :
AND UA-767,và Sunbeam 7652
Omron HEM-711, Omron HEX -712
Omron HEM-705CP, Omron HEM-735C, Omron HEM-713C, Omron HEM -737 Intellisense,
Loại bán tự động(bơm tay) giá thành rẻ hơn:AND UA -702, Omron HEM- 412C, Lumiscope 1065, Sunmark 144.
Một số máy có thể chấp nhận sử dụng:
Omron HEM 703CP, Omron M4Omron MX2Omron HEM-722C
Một số máy không chấp nhận sử dụng:Philips HP5332, Nissei DS-175
Omron HEM 706, Omron HEM 403C
Bên cạnh đó một số máy ra đời sau này được cải tiến về chất lượng tốt hơn đã được bày bán trên thị trường nhưng chưa được kiểm định bởi 2 tổ chức trên. Do đó bảng trên đây chỉ có giá trị tham khảo.Các xét nghiệm cần làm khi bạn bị cao huyết áp:Xét nghiệm cơ bản đối với tất cả các bệnh nhân:Tổng phân tích nước tiểu
Công thức máu toàn phần
Sinh hoá máu (kali, natri. creatinin, glucose, cholesterol toàn phần, HDL cholesterol)
ECG
Xét nghiệm tối ưu:Độ thanh thải creatinine,vi đạm niệu, protein nước tiểu 24 giờ, calcium, axit uric , triglyceride lúc đói,LDL cholesterol, glycosolated hemoglobin, TSH,
siêu âm tim.
Xét nghiệm tìm nguyên nhân:Huyết áp cao xãy ra >90% không tìm thấy nguyên nhân hay còn gọi là vô căn. Chỉ một số ít bệnh nhân cao huyết áp có nguyên nhân gây ra.Cao huyết áp có nguyên nhân cần nghi ngờ ở những bệnh nhân trẻ tuổi hoặc quá lớn tuổi, kém đáp ứng điều trị hoặc khởi phát cao huyết áp đột ngột. Do đó bác sĩ của bạn sẽ cho thêm những xét nghiệm tầm soát tốn kém hơn để tìm nguyên nhân của cao huyết áp và như vậy mới có thể giải quyết tận gốc nguyên nhân cao huyết áp.Nếu huyết áp dao động nhiều có những cơn kịch phát kèm nhịp tim nhanh,vả mồ hôi, nhức đầu nhiều bác sĩ của bạn sẽ nghi ngờ khối u ở thượng thận tủy sẽ cho thêm các xét nghiệm: siêu âm thận tìm khối u vùng thượng thận và xét nghiệm catecholamine nước tiểu 24 giờ và chất chuyển hoá vanillyl madelic acid (VMA), chụp đồng vị phóng xạ MIBG
Nếu cao huyết áp kèm chênh lệch huyết áp chi trên và chi dưới hoặc mạch đùi khó bắt cần xem xét hẹp eo động mạch chủ .Có thể sử dụng siêu âm Doppler mạch máu ,chụp mạch máu chọn lọc DSA. chụp mạch bằng cộng hưởng từ(Magnetic Resonance Angiography).Những kỷ thuật này có thể sử dụng khi nghi ngờ hẹp Động mạch thận.
Các xét nghiệm Renin, Aldosterone và Cortisone cũng giúp ích nhiều trong xác định cao huyết áp do bệnh lý nội tiết tố như hội chứng Conn và Cushing...
Tại sao phải điều trị huyết áp cao?Huyết áp cao thường gây tai biến nghiêm trọng như tử vong và hôn mê do tai biến mạch máu não, di chứng liệt nữa người, suy tim, thiếu máu cơ tim, suy thận, phinh bóc tách động mạch chủ... Do đó mục đích chính của điều trị cao huyết áp là để phòng ngừa những biến chứng này.
Thông qua trị số huyết áp được hạ bằng thuốc hạ áp chúng ta có thể nhận biết huyết áp có thể kiểm soát tốt hay không. Tốt nhất nên đưa trị số huyết áp về < 140/85mmHg;đối với người gia,ø trị số huyết áp ban đầu có thể đưa về <160/90mmHg sau đó điều chỉnh tùy theo sự chịu đựng của bệnh nhân.
Điều trị huyết áp cao là điều trị suốt đời,do đó khi huyết áp đã trở về gần bình thường cũng không nên ngưng thuốc hạ áp mà phải điều trị tiếp tục vì huyết áp gia tăng trở lại khi ngưng thuốc.Cần tham vấn thường xuyên bác sĩ của bạn khi huyết áp quá cao hoặc quá thấp trong quá trình điều trị.
Điều trị thuốc hạ áp có thể phối hợp các nhóm thuốc khác nhau để tăng hiệu quả và giảm tác dụng phụ (do sử dụng liều thấp).Cần lưu ý đến tác dụng phụ của thuốc khi điều trị đặc biệt là tụt huyết áp ở người già. Ơû người già, bác sĩ điều trị thường cho thuốc hạ áp với liều khởi đầu chỉ bằng nữa liều người trẻ vì người già dễ tụt huyết áp do thuốc hơn.
Ngoàøi việc điều trị huyết áp, cần lưu ý điều trị các yếu tố nguy cơ khác kèm theo như tiểu đường , tăng lipid máu...
Bạn sẽ được bác sĩ điều trị gì khi bạn bị cao huyết áp?Thông thường khi đo trị số huyết áp của bạn cao >140/90nnHg với nhiều lần đo trong nhiều ngày bạn có thể được xem là cao huyết áp.Nếu huyết áp của bạn không cao lắm tức khoảng 140/90-150/95nnHg và tình trạng chung tốt và không mắc các bệnh làm xấu thêm tình trạng tim mạch.Bạn có thể không dùng thuốc mà cần phải điều chỉnh cách sống. Nếu huyết áp cao hơn hoặc không cải thiện thì có thể xem xét điều trị thuốc ngay sau khi cân nhắc cẩn thận.
Việc điều chỉnh các sống bao gồm:Điều chỉnh chế độ ăn uống như giảm ăn mặn (<6g natri chlorua), giảm mỡ,giảm đường (nếu có tiểu đường), không uống quá nhiều bia rượu mặc dù uống với số lượng hạn chế cũng giúp có lợi cho sức khoẻ của bạn (chừng 15ml rượu ethanol, 360ml bia/ngày)
Tập thể dục đều đặn là cách thức giảm cân, hoạt động thể lực aerobic hàng ngày 30-45 phút hầu hết các ngày trong tuần.
Ngưng hút thuốc lá.
Đời sống tinh thần thoải mái nghỉ ngơi giải trí hợp lý
Điều trị thuốc hạ áp:
Bác sĩ của bạn sẽ điều trị bệnh cao huyết áp bằng thuốc cho bạn khi trị số huyết áp khá cao, huyết áp cao có ảnh hưởng tim,mắt ,thận , não.hay chưa cũng như kèm theo các bệnh liên quan khác (tiểu đường, tăng mỡ trong máu.)
Một số thuốc hạ áp thường dùng:Nhóm thuốc lợi tiểu:Furosemid(Lasix, Lasilix)
Hydrochlorothiazid(Hypothiazid)
Indapamid(Natrilix SR)
Nhóm thuốc ức chế can xi:Nhóm Dihydropyridine : Nifedipine(Adalat,Procardia) chỉ nên sử dụng chế phẩm tác dụng kéo dài không nên sử dụng các chế phẩm tác dụng ngắn đặc biệt là dạng ngậm dưới lưởûi vì không an toàn (gia tăng cơn đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim và tử vong).Felodipine(Plendil), Amlodipine(Amlor.Amdepin, Amlopress)
Nhóm Không Dihydropyridine :Tildiem(Tildiazem), Verapamil(Isoptin)Nhóm thuốc ức chế men chuyển:Captopril (Lopril), Enalapril (Renitec), Lisinopril (Zestril), Peridopril (Coversyl)
Nhóm thuốc ức chế bêta giao cảm:Propranolol (Avlocardyl, Inderal), Atenolol (Tenormin), Metoprolol (Lopresor),Acebutolol (Sectral), Pindolol (Visken)
Việc lựa chọn thuốc hạ áp nào là phụ thuộc vào tình trạng huyết áp và tình trạng bệnh lý saün có( tuổi, bệnh tim, bệnh phổi,bệnh thận.).Ví dụ người có bệnh phổi như hen suyễn hoặc nhịp tim chậm(<60 lần/phút) thì không nên sử dụng thuốc ức chế bêta.Nhưng thuốc ức chế bêta có lợi hơn ở những bệnh nhân huyết áp cao kèm thiếu máu cơ tim mà nhịp tim nhanh. Người có suy tim thì thuốc ức chế men chuyển có lợi hơn. Thuốc ức chế can-xi Dihydropyridine thường được chỉ định rộng rãi vì ít tác dụng phụ, nhưng tốt nhất sử dụng dạng tác dụng kéo dài.Nhóm không Dihydropyridine (verapamil, diltiazem) có tác dụng tốt cao huyết áp kèm bệnh mạch vành , nhưng làm chậm dẫn truyền và suy giảm sức bóp của tim do đó cần thận trọng với blốc A-V, và suy tim.
Theo dõi hiệu quả điều trị:Các cách thức theo dõi điều trị:Đo huyết áp tại phòng khám:Đây là cách thức thường áp dụng cho bệnh nhân. Nhược điểm là trị số huyết áp tại phòng khám thường cao hơn trị số thực sự 20-30mmHg, dù kỷ thuật đo của bác sĩ là đúng. Hiện tượng này còn gọi là hiệu ứng áo choàng trắng.Sự gia tăng huyết áp này là do tâm lý bệnh nhân khi đến môi trường y tế.Điều này làm bác sĩ thay đổi thuốc hoăïc tăng liều sẽ gây bất lợi là tụt huyết áp do điều trị quá mức.
Đo huyết áp tại nhà: Thật là lý tưởng nếu bệnh nhân tự đo huyết áp ở nhà nhiều lần trong ngày để kết hợp với trị số đo tại phòng khám. Với các máy đo huyết áp điện tử hiện nay( đặc biệt những máy có kiểm định chất lượng tốt) sẽ hổ trợ lớn cho bác sĩ và bệnh nhân theo dõi điều trị.Một khó khăn thường gặp là làm sao để bệnh nhân đo tại nhà đúng kỷ thuật và không phải tất cả bệnh nhân đều có maý đo huyết áp tại nhà dù giá máy hiện nay tương đối chấp nhận.
Đo huyết áp với kỷ thuật theo dõi huyết áp liên tục 24 giờ (ABPM) trong điều kiện ngoại trú:Ngoài ra, khi bạn không có máy đo huyết áp tại nhà, bác sĩ của bạn có thể đề nghị bạn mang 1 máy đo huyết áp theo dõi liên tục 24 giờ (ambulatory blood pressure monitoring-ABPM), là máy đo huyết áp trong điều kiện ngoại trú. Đây là loại máy hoàn toàn tự động, ban ngày máy có thể đo mỗi 15 phút 1 lần và ban đêm mỗi 30 phút -1 giờ 1 lần đo.Sau đó 24 giờ sẽ nạp vào máy vi tính và bác sĩ chuyên trách sẽ in ra cho bạn 1 bảng kết quả đo và biểu đồ huyết áp dao động trong ngày.Nhờ số lần đo >60 lần/ ngày mà bác sĩ của bạn sẽ biết được chính xác hơn huyết áp của bạn đã trở về gần bình thường chưa và biết được thời điểm nào huyết áp bạn lên cao hoặc có tụt huyết áp không để điều chỉnh thuốc hạ áp cho bạn.Chi phí cho một lần đo 24 giờ chừng 200.000 đồng là tương đối cao nhưng hiệu quả đánh giá tình trạng huyết áp trong khi điều trị là khá lớn và cho đến nay đây là biện pháp tốt nhất để đánh giá hiệu quả điều trị so với đo huyết áp tại phòng khám hoặc tự đo tại nhà.
Hình 2: Một người cao huyết áp đang mang máy theo dõi huyết áp 24 giờ (ABPM)Điều trị cao huyết áp chỉ thật sự ích lợi khi trị số huyết áp được đưa về gần như bình thường.Với trị số này mới có thể ngăn ngừa biến chứng do cao huyết áp.Vấn đề quan trọng là việc tuân thủ điều trị của bệnh nhân và sử dụng thuốc hợp lý của bác sĩ.Trong nhiều khảo sát gần đây cho thấy chỉ 40-50% bệnh nhân được điều trị cao huyết áp có trị số huyết áp trở về gần bình thường .Người cao huyết áp không tuân thủ đúng điều trị một phần do chưa hiểu hết tầm quan trọng của điều trị huyết áp, do công việc không tái khám và uống thuốc đúng giờ, chi phí thuốc và các xét nghiệm kèm theo trong mỗi lần khám khá đắt và tác dụng phụ của thuốc.
Việc theo dõi điều trị có hiệu quả hay không là vấn đề quan trọng.Có thể bạn tự đo huyết áp ở nhà trung bình > 3lần /ngày sau đó ghi vào sổ theo dõi huyết áp. Khi tái khám bạn nên đem theo để bác sĩ của bạn tham khảo kết hợp với trị số đo huyết áp tại phòng khám bệnh.
Mặc dù huyết áp bạn có thể đã ổn định trong giới hạn cho phép nhưng điều đó không có nghĩa là bạn tự ý ngưng thuốc. Bạn cần khám định kỳ tại bác sĩ chuyên khoa tim mạch mà bạn tin tưởng và tái khám ngay khi bạn thấy có thay đổi bất thường như choáng váng, khó thở...
Luôn luôn tìm nguyên nhân gây ra cao huyết áp:Hầu hết các trường hợp cao huyết áp đều là không rõ nguyên nhân, do đó ngoài việc điều trị bằng thuốc hạ áp phải lưu ý đến điều trị các yếu tố nguy cơ như tiểu đường ,tăng lipid máu, giảm ăn mặn,chế độ ăn kiêng hợp lý, tập thể dục đều đặn.
Ở người trẻ hoặc người quá già có cao huyết áp cần lưu ý một số nguyên nhân mà việc điều trị can thiệp phẩu thuật có thể chửa trị khỏi hoàn toàn như hẹp eo động mạch chủ, hẹp động mạch thận,u tủy thượng thận.

Rối loạn tâm lý ở người cao tuổi

Hiện nay, số lượng người cao tuổi (NCT) ở Việt Nam không ngừng gia tăng. Theo thống kê điều tra dân số năm 1999, có khoảng 6 triệu NCT, chiếm tỷ lệ 8% dân số. Dự tính đến năm 2020, tỷ lệ này sẽ lên khoảng 18%. Cùng với sự gia tăng các bệnh thực thể, các rối loạn tâm lý cũng là “bạn đồng hành” của những NCT. Các rối loạn tâm lý thường gặp là trầm cảm và lo âu.Các nghiên cứu cho thấy, rối loạn trầm cảm và lo âu gặp ở 25% bệnh nhân ở các cơ sở khám bệnh đa khoa. Một nghiên cứu mới đây tại Viện Lão khoa Việt Nam cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân trầm cảm kết hợp với lo âu ở các bệnh nhân cao tuổi nằm viện là rất cao, lên tới 40%.

 Thể thao sẽ làm giảm rối loạn tâm lý ở NCT.
Một số nguyên nhân thường gặp
Đầu tiên là các stress của việc tái thích nghi với hoàn cảnh sống mới, khi phải chuyển từ giai đoạn làm việc tích cực đến giai đoạn nghỉ hưu. Những NCT sau khi về hưu trải qua một loạt các biến đổi tâm lý quan trọng do nếp sinh hoạt thay đổi, các mối quan hệ xã hội bị hạn chế. Một số người khó thích nghi được với giai đoạn khó khăn này nên mắc “hội chứng về hưu”, với tâm trạng buồn chán, mặc cảm, thiếu tự tin, dễ cáu gắt, nổi giận.
Thứ hai là tâm lý tự nhiên của NCT là thường sợ ốm đau, bệnh tật, sợ chết. Như chúng ta biết, lão hóa là một quá trình tự nhiên không thể cưỡng lại được, làm giảm sức đề kháng của cơ thể đối với các yếu tố gây bệnh như: nhiễm khuẩn, nhiễm độc, các stress.
Đây là mảnh đất “màu mỡ” để bệnh tật phát triển. Ngoài việc phải “thừa hưởng” những bệnh mạn tính từ giai đoạn trước đó của cuộc đời, NCT còn mắc thêm các bệnh khác nữa.
Do vậy, đặc điểm bệnh lý của NCT là mắc nhiều bệnh cùng một lúc như: tăng huyết áp, suy tim, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, Alzheimer, Parkinson, các bệnh xương và khớp, bệnh phổi, phế quản, ung thư... Hậu quả là bệnh tật làm thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc tâm lý và nhân cách của người bệnh. Bệnh càng nặng, càng kéo dài thì sự biến đổi tâm lý càng trầm trọng.
Những NCT nào thường bị rối loạn tâm lý?
Về độ tuổi, có 2 giai đoạn NCT hay bị rối loạn tâm lý, đó là độ tuổi từ 50-59 và tuổi trên 70. Các cụ bà thường mắc bệnh nhiều hơn các cụ ông. Những người có trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn cũng dễ bị mắc bệnh hơn. Những người bị mắc nhiều bệnh, kèm theo các chứng đau, phải nằm viện nhiều lần cũng dễ bị rối loạn tâm lý hơn.
Các hình thức rối loạn tâm lý ở NCT
Các rối loạn tâm lý ở NCT rất phong phú và đa dạng. Những biểu hiện nhẹ là khó chịu, lo lắng. Nặng hơn một chút là các biểu hiện rối loạn thần kinh chức năng, với các biểu hiện suy nhược cơ thể, lo âu, ám ảnh bệnh tật. Nặng hơn nữa có thể có các trạng thái rối loạn tâm thần, biểu hiện bằng các hội chứng hoang tưởng và rối loạn ý thức.
Một nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về rối loạn tâm thần ở bệnh viện đa khoa trên 25.000 bệnh nhân thuộc 14 quốc gia cho thấy ¼ có rối loạn tâm thần. Rối loạn tâm lý thường gặp nhất là lo âu.
Lo âu có thể là biến chứng của điều trị hoặc xuất phát từ nhận định tiêu cực về tiên lượng bệnh của mình. Các biểu hiện lo âu thường rất đa dạng, phức tạp. Bệnh nhân cảm thấy sợ hãi, lo lắng về tương lai, dễ cáu, khó tập trung tư tưởng, căng thẳng vận động, bồn chồn, đứng ngồi không yên, đau đầu, khô miệng, đánh trống ngực.
Đôi khi người bệnh trải nghiệm cảm giác khiếp sợ, hoảng loạn, tuyệt vọng về bệnh tật, sợ chết. Bệnh nhân cũng có thể có các suy nghĩ ám ảnh như: nghi bệnh, sợ bẩn... khiến phải rửa tay liên tục hay kiểm tra đi kiểm tra lại...
Lo âu có thể kéo dài, gây trở ngại rõ rệt đến sinh hoạt, hoạt động nghề nghiệp, quan hệ xã hội của bệnh nhân. Rối loạn tâm lý khác cũng thường gặp là trầm cảm. Một nghiên cứu gần đây tại Mỹ cho thấy trong đời người, 13% người dân có cơn trầm cảm. Tuy nhiên, NCT hay mắc chứng trầm cảm hơn.
Ở NCT, trầm cảm thường biểu hiện bằng sự lo lắng thái quá về sức khỏe, cảm giác buồn phiền, chán nản và mất niềm tin kéo dài. Những triệu chứng này thường kèm theo sự suy giảm nghị lực, mất tập trung, mất ngủ, chán ăn, khó ngủ và đi đến suy kiệt.
Ngoài ra, họ còn có các biểu hiện khác như: xa lánh vợ hoặc chồng, bạn thân, đau ốm liên miên, không hoạt bát, hay thất vọng, giảm trí nhớ, khó thích nghi với những thay đổi như việc chuyển chỗ ở hoặc những thay đổi trong nội bộ gia đình.
Về mặt y khoa, trầm cảm là một rối loạn thuộc nhóm rối loạn khí sắc, thể hiện sự ức chế của cảm xúc, tư duy và vận động. Người bệnh trải qua cảm xúc buồn rầu ủ rũ, nhìn sự vật xung quanh một cách bi quan ảm đạm.
Bệnh nhân có tư duy chậm chạp, biểu hiện bằng suy nghĩ chậm chạp, liên tưởng không nhanh chóng, tự cho mình là thấp kém, có hoang tưởng bị tội, tự buộc tội, nghi bệnh, có ý nghĩ và hành vi tự sát.
Ngoài ra vận động cũng bị ức chế. Người bệnh ít hoạt động, ít nói, sững sờ, đờ đẫn, thường ngồi lâu một tư thế với nét mặt trầm ngâm suy nghĩ. Trầm cảm ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt cá nhân, gia đình, cũng như khả năng thực hiện các công việc xã hội, nghề nghiệp, nhiều trường hợp còn dẫn đến hành vi nguy hiểm cho bản thân và xung quanh như tự sát hoặc giết người rồi tự tử.
Tóm lại, trong cuộc sống hàng ngày, các nhân viên y tế và người thân của bệnh nhân cần quan tâm nhiều hơn đến bệnh nhân, để nhận biết và điều trị kịp thời rối loạn trầm cảm và lo âu ở NCT.
Luyện tập thể thao tăng cường sức khỏe là một biện pháp tránh trầm cảm của NCT.
BS. QUỐC BẢO

Tâm lý người cao tuổi


images28.jpg Người 65 tuổi hay cao hơn được gọi là người cao niên hay người già. Từ 65 đến 75 tuổi là già trẻ và 75 tuổi trở lên là già già.  Khi trở về già, con người có những biến chuyển về thể lý và tâm lý mà chúng ta nên biết cho chính mình (nếu mình thuộc lứa tuổi cao niên) để thích nghi với những sự thay đổi hầu có một nếp sống thích hợp.Nếu quý bạn đọc thuộc lứa tuổi trẻ hơn, thì sự hiểu biết này sẽ giúp quý vị thông cảm với người già, thường là cha mẹ hay ông bà của quý vị.
THAY ÐỔI VỀ THỂ LÝ
Sự thay đổi về diện mạo bề ngoài thì ai cũng thấy như: da nhăn, tóc bạc, lưng khòm, đi đứng chậm chạp, nói năng chậm chạp, mắt mờ, tai lãng, sức yếu v.v… Tôi muốn trình bày ở đây những sự thay đổi tinh tế mà nếu không lưu tâm, chúng ta sẽ không nhận ra, và từ đó, đưa đến sự thiếu sót trong việc chăm sóc cho các cụ, nhiều khi đưa tới những hậu quả tai hại cho sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần:
1. Phản ứng chậm:  sau khi nghe câu hỏi, người già cần một khoảng thời gian lâu hơn để ghi nhận dữ kiện, và thời gian lâu hơn để đưa ra câu trả lời. Do đó, chúng ta cần nói chậm rãi hơn bình thường, nhìn thẳng vào mắt các cụ để biết rằng các cụ đang chú ý lắng nghe, khi có câu hỏi quan trọng. Chúng ta cũng cần chờ lâu hơn bình thường để nghe câu trả lời. Nếu các cụ lãng tai, thì chúng ta càng cần kiên nhẫn hơn nữa.
2. Sự đi đứng chậm chạp và phản ứng chậm khiến các cụ cần nhiều thời gian hơn để chuẩn bị mỗi khi đi ra ngoài. Do đó, chúng ta cần báo cho các cụ biết trước khi các cụ cần đi đâu, càng sớm càng tốt để các cụ chuẩn bị, như thay quần áo, thu xếp giấy tờ cần thiết. Chúng ta cần để ý đến tâm trạng sốt ruột và bực bội của mình khi chờ các cụ, để kiên nhẫn hơn và tránh những câu nói thiếu tế nhị làm các cụ cảm thấy tủi thân và mủi lòng.
3. Thiếu chú ý và hay quên:  thật ra, người già không mất đi những hiểu biết và khả năng của mình, các cụ chỉ chậm chạp hơn trong việc bày tỏ và vận dụng sự hiểu biết của mình mà thôi, do đó, nhìn bề ngoài chúng ta dễ nghĩ là các cụ hay quên khi chúng ta phải chờ một hồi lâu mới được câu trả lời mà mình muốn nghe. Chúng ta cần để ý đến sự bực bội của mình khi phải lập đi lập lại một điều đã cũ mà chúng ta cho rằng các cụ đã biết rồi. Chúng ta cần phân biệt sự chậm chạp và hay quên bình thường của người già với bệnh lẫn gọi là Dementia hay Alzheimer Disease. Hai bệnh này cần có sự khám nghiệm và điều trị của bác sĩ thần kinh hoặc bác sĩ tâm thần.
4.  Dễ mắc bệnh hơn người trẻ, do sự già lão và suy nhược của các cơ quan trong cơ thể, và do khả năng miễn nhiễm không còn mạnh mẽ như trước. Những bệnh như cảm cúm, sưng phổi, rất dễ đưa tới cái chết cho người già mặc dù người trẻ có thể đương cự và bình phục một cách dễ dàng. Những triệu chứng báo động của cơ thể không còn bén nhạy như trước, do đó, người già có thể không cảm thấy là mình đang khát mặc dù cơ thể đang bị thiếu nước trầm trọng, người già có thể không bị sốt cao như người trẻ mặc dù đang bị sưng phổi hay nhiễm trùng.  Do đó, người già cần được lưu tâm và quan sát đặc biệt để nhận ra những thay đổi cho thấy các cụ đang bị bệnh, hầu kịp thời săn sóc và chữa trị.
5.  Hay ngã té:  vì chân yếu và khả năng giữ quân bình không còn mạnh như xưa. Do đó, trong phòng tắm cần có những biện pháp ngừa trơn trợt khi các cụ ra vào bồn tắm. Các cụ có thể không lên xuống cầu thang một cách mạnh dạn hay dễ dàng như trước. Sau khi té ngã, bị gãy xương chẳng hạn, các cụ cũng cần thời gian lâu hơn mới bình phục lại được.
THAY ÐỔI TÂM LÝ
Trong các giai đoạn của cuộc sống, tuổi già là tuổi con người ngưng bon chen với cuộc sống để bắt đầu thụ hưởng kết quả do những năm tháng trước mang lại. Tuổi này còn là lứa tuổi truyền lại cho con cháu và thế hệ sau những kinh nghiệm và sự hiểu biết, hoặc đóng góp vào xã hội qua những sinh hoạt xã hội, giáo dục và từ thiện. Bên cạnh đó, sự suy giảm chức năng có thể làm cho người già cảm thấy mình không còn làm chủ tình hình như trước và trở nên lo lắng quá độ.  Nếu con người tới tuổi già không có gì để thụ hưởng, sống nghèo khó, đơn côi, không người chăm sóc hay kề cận, hoặc có những ước mơ không thỏa, họ có thể có những xáo trộn tâm lý như phát bệnh trầm cảm hoặc trở nên lo lắng hay đa nghi. Sau đây là những thay đổi tâm lý còn nằm trong mức độ bình thường:
1.  Muốn được chăm sóc và để ý tới nhiều hơn: do những thay đổi thể lý, người già có thể mất đi những khả năng đã có như không thể lái xe được nữa, không tự nấu ăn hay chăm sóc vệ sinh cơ thể được nữa, do đó trở thành lệ thuộc người khác. Có người già chấp nhận và ứng phó thành công với sự suy giảm chức năng, nhưng cũng có người trở thành lo lắng quá độ, lúc nào cũng đòi con cái ở cạnh để được chăm sóc, hoặc trở thành cau có, gắt gỏng khi con cái bê trễ trong việc đáp ứng những nhu cầu của mình.
2. Sợ cô đơn: nhất là với đời sống ở các nước tân tiến và kỹ nghệ như tại Hoa Kỳ, tuổi trẻ bận rộn bay nhảy, bon chen, người già rất dễ thấy mình bị bỏ rơi và quên lãng trong bốn bức tường, nếu không có khả năng lái xe, đi xe bus để tham gia những sinh hoạt xã hội hoặc giải trí.  Sự cách biệt giữa các sinh hoạt thời còn trẻ và tuổi già càng nhiều thì sự thích nghi càng khó. Do đó, người già có thể có thái độ thất vọng, trì kéo và lệ thuộc vào con cái của mình. Chúng ta cần thông cảm thái độ này để cư xử một cách tế nhị hầu tránh rơi vào trường hợp hất hủi hay ngược đãi người già.
3. Hay lo âu hơn trước: chính vì chậm chạp, mất đi những chức năng và phải lệ thuộc hay nhờ vả người khác, mà người già trở nên lo lắng quá độ. Do sự lo lắng này, các cụ thường lập đi lập lại một yêu cầu hay một câu hỏi, để được trấn an. Nhưng chính sự lập đi lập lại này có thể làm con cháu hay người gần cận trở thành bực dọc và cau có với các cụ.
4. Dễ mủi lòng, tủi thân khi những nhu cầu hay yêu cầu của mình không được các con đáp ứng đầy đủ hay nhanh chóng.  Nhất là các cụ đã từng dành phần lớn thì giờ của đời mình trong việc chăm sóc, lo lắng cho các con với ước mơ được các con đền đáp lúc tuổi già.
5. Nếu người già có những ước mơ không thực hiện được, không hài lòng với cuộc đời mình, có thể có những triệu chứng của bệnh trầm cảm, và trở thành một người khó tính, hay gay gắt với con cái, và có thể, ganh tị cả với sự thành công của các con. Những người già can thiệp hay kiểm soát quá nhiều vào đời sống con cháu, thường là những người không thỏa hiệp và thích nghi được với giai đoạn mới này của đời sống.
NHỮNG ÐIỀU CẦN ÐỂ Ý KHI CƯ XỬ VỚI NGƯỜI CAO NIÊN
1. Hiểu được rằng người cao niên có những sự thay đổi do tuổi già đem lại, do đó, các cụ có thể không còn đáp ứng được những gì chúng ta mong ước nơi các cụ, như nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, lái xe, ứng biến nhanh chóng đối với những sự thay đổi của đời sống. Hiểu như vậy sẽ giúp chúng ta thông cảm thay vì thất vọng hay nổi giận khi mọi chuyện không còn xảy ra như chúng ta mong ước.
2.  Quan tâm đến những nhu cầu thực tế và căn bản của các cụ hầu đáp ứng, như ăn, ngủ, phương tiện chuyên chở khi đi khám bác sĩ.  Ðể ý xem các cụ có chính xác trong việc uống thuốc đúng theo toa bác sĩ không hầu giúp đỡ.
3. Kiên nhẫn, tránh tìm cách chứng minh là các cụ sai lầm.  Cần suy nghĩ và nhận xét tình hình trước khi có phản ứng.  Bạn sẽ thấy rằng mình hay gắt gỏng và cau có với các cụ hơn trước chỉ vì bị hỏi đi hỏi lại một câu hỏi mà bạn đã trả lời nhiều lần.  Bạn cần để ý đến sự bực bội của mình vì các cụ quá chậm chạp mà mình thì đang gấp rút chạy đua với công việc.
4. Lắng nghe các cụ nói và ghi nhận, thay vì tìm cách sửa sai. Các cụ rất dễ tủi thân vì cho rằng con cái không còn kính trọng mình nữa. Cứ làm những điều bạn cho là đúng mà không cần phải thuyết phục các cụ đồng ý với mình, đồng thời vẫn ngọt ngào và chăm sóc các cụ. Nếu bạn cảm thấy khổ sở vì phải nghe các cụ lập đi lập lại những lời khuyên đã cũ, có thể tế nhị hướng câu chuyện sang một lãnh vực khác, hoặc biến những cuộc thăm viếng trở thành thường xuyên nhưng ngắn hạn hơn.
5. Cung cấp và tạo điều kiện cho các cụ có những sinh hoạt giải trí đều đặn, như đi bộ cùng các cụ khác, tập thể thao, đánh bài, đánh cờ tướng, đi du lịch.  Người già thường yêu thích trẻ con, do đó nên tạo cơ hội cho các cụ vui chơi với các cháu ngoại, cháu nội.
6. Khi thấy các cụ có những sự thay đổi lớn, như hay cau có, gắt gỏng, thay đổi tính nết trở thành khó chịu, hay quên, xuống cân, ít ngủ, biếng ăn, nên nghĩ đến những căn bệnh có thể xảy ra cho người già về thể chất lẫn tâm thần hầu kịp thời đưa các cụ đi khám bác sĩ, thay vì cho rằng chỉ là những thay đổi thông thường.
CÁI CHẾT
Vấn đề ưu tư hàng đầu của người già, dù nói ra hay không, vẫn là đối diện với cái chết. Có cụ rất thoải mái bàn luận về vấn đề này, có những thu xếp và hoạch định rõ ràng về tang lễ của mình. Có cụ không nói gì vì kiêng cữ, sợ xui xẻo, con cháu chỉ biết được ý các cụ sau khi đã qua đời, theo chúc thư để lại. Có cụ không thỏa hiệp được với cái chết, và có những dấu hiệu sợ hãi cái chết.  Do đó, bạn nên dò xét ý tứ các cụ và tạo cơ hội để các cụ có thể bàn bạc về vấn đề này một cách rõ ràng.  Các cụ đa số sẽ thấy yên tâm hơn khi con cháu biết được ý muốn của mình và tỏ vẻ hợp tác để thực hiện ước muốn của các cụ.
(Bác sĩ Lê Phương Thuý)

Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...