Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

Phát hiện sớm và đúng bệnh chân tay miệng

Tuy mùa dịch bệnh chân tay miệng mới bắt đầu, nhưng đã có nhiều trẻ em nhập viện với biến chứng nặng. Bệnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vaccin phòng bệnh, nên cần phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Phát hiện sớm và đúng bệnh chân tay miệng

Virut đường ruột là nguyên nhân chính gây bệnh

Virut Entero 71 được xác định gây bệnh chân tay miệng là một loại virut đường ruột, gây bệnh chủ yếu lây nhiễm qua đường tiêu hóa, trực tiếp phân – miệng hoặc gián tiếp qua nước, thực phẩm, tay bẩn… bị ô nhiễm phân người bệnh. Một số ít trường hợp được ghi nhận lây lan qua đường hô hấp.
Sau khi xâm nhập, virut đến cư trú tại họng và đoạn dưới của ống tiêu hóa. Trong vòng 24 giờ, chúng sẽ xâm nhập vào các hạch bạch huyết tại chỗ và tăng sinh tại đây. Giai đoạn này, virut được tìm thấy trong dịch cổ họng và trong phân của bệnh nhân.
Bệnh thường xảy ra vào mùa hè thu và gần như quanh năm ở các nước nhiệt đới, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, phổ biến ở trẻ dưới 4 tuổi. Hội chứng này mới được chú ý ở Việt Nam trong vài năm gần đây và thường bùng phát thành dịch mạnh ở các tỉnh phía Nam, ít gặp hơn ở các tỉnh phía Bắc.

Biến chứng viêm não có thể dẫn đến tử vong

Bệnh tay chân miệng do virut Entero 71 gây ra có những triệu chứng ban đầu như sốt nhẹ, sưng miệng, nổi bong bóng nước to khoảng đầu đũa, màu xám, đỏ hình ô van ở vùng mông, gối, lòng bàn tay, lòng bàn chân và thường ấn không đau. Bong bóng nước còn xuất hiện trong miệng, khi vỡ ra gây những vết loét trong miệng. Một số trẻ có kèm nôn ói, tiêu chảy ngay khi nổi bóng nước hay khi bóng nước đã xẹp. Những triệu chứng này khiến nhiều bác sĩ chẩn đoán nhầm là bệnh thủy đậu, nhiễm khuẩn da hay dị ứng…
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, đến ngày thứ 3, virut từ các hạch theo máu đến gây tổn thương tại da, niêm mạc, tiếp tục sinh sản rồi gây những triệu chứng đầu tiên.
Các tế bào dưới da và niêm mạc phình to, chứa nhiều dịch tiết, gây hoại tử, phù trong tế bào và quanh tế bào. Tổn thương chủ yếu ở các vùng miệng, tay và chân. Sau khi gây tổn thương da, niêm mạc, virut không nhân lên nữa, cơ thể xuất hiện kháng thể và hiện tượng nhiễm virut chấm dứt.
Ở một số trường hợp, virut từ da, niêm mạc trở vào máu lần thứ 2 để đến hệ thần kinh trung ương gây viêm não, viêm màng não, liệt. Đồng thời, cơ thể sản xuất kháng thể và virut ở da, niêm mạc biến mất. Tuy nhiên, virut ở đường ruột có thể hiện diện kéo dài đến 17 tuần.
Trẻ nhỏ có thể có ban dạng sẩn vùng mông, nơi quấn tã lót. Trong giai đoạn diễn tiến, khi virut gây bệnh xâm nhập hệ thần kinh trung ương, trẻ sẽ xuất hiện triệu chứng rối loạn tri giác như lơ mơ, ly bì, mê sảng hay co giật, có nhiều trường hợp trẻ có mạch nhanh nhưng không sốt cao, yếu tay chân, méo miệng. Bệnh nhi có thể tử vong hoặc phục hồi sau một thời gian điều trị, nhưng vẫn còn những rối loạn tâm thần kinh kéo dài.

Phòng bệnh là biện pháp cơ bản

Nếu bệnh do các virut lành tính gây ra, bóng nước tự xẹp đi, bệnh có thể tự khỏi sau 5-7 ngày. Nhưng nếu bệnh do virut Entero 71 gây ra thì có thể bị biến chứng rất nguy hiểm là viêm não, viêm cơ tim, viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết rất dễ dẫn tới tử vong.
Trẻ mắc hội chứng chân – tay – miệng thường khỏi trong vòng 1 tuần nếu được điều trị đúng cách, không có biến chứng. Nếu không được điều trị đúng cách hoặc diễn tiến nặng, bệnh sẽ gây những biến chứng rất nặng.
Có những trường hợp mắc bệnh tay chân miệng nhưng rất ít các triệu chứng hoặc không có các biểu hiện dễ nhận thấy như nổi bóng nước, nên nếu thấy trẻ có những triệu chứng bất thường kể trên cần nhanh chóng đưa trẻ đến bệnh viện. Gia đình phải theo dõi sát sao trẻ ít nhất trong 8 ngày sau triệu chứng đầu tiên để phát hiện ngay các dấu hiệu biến chứng và đưa trẻ đến bệnh viện để được điều trị kịp thời.
Do đa số bệnh tay – chân – miệng sẽ tự khỏi nên đối với trường hợp không có dấu hiệu của biến chứng có thể điều trị tại nhà bằng thuốc giảm đau, cho trẻ ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu, cố gắng cho trẻ ăn thành nhiều bữa.
Hiện nay bệnh tay – chân – miệng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vaccin phòng ngừa nên cách phòng bệnh tốt nhất là bảo đảm vệ sinh trong ăn uống, cá nhân cho trẻ thật tốt. Cho trẻ ăn uống đầy đủ dưỡng chất, uống nhiều nước. Không cần kiêng gió và ánh sáng. Nên cho trẻ mắc bệnh nghỉ học và không cho tiếp xúc với trẻ khác để tránh lây lan bệnh.

Theo Sức khỏe & Đời sống

Các thể bệnh viêm phổi ở trẻ em

Các thể bệnh viêm phổi ở trẻ em
Khi thời tiết giao mùa cũng là lúc các bệnh viện nhi trở nên quá tải bởi các bệnh đường hô hấp như cúm, viêm họng, viêm phế quản sốt, ho… trong đó, viêm phổi là một trong những bệnh có hậu quả nghiêm trọng và chiếm tỉ lệ cao nhất. Vì sao trẻ hay bị viêm phổi và nên chăm sóc phòng ngừa bệnh cho bé như thế nào?

Viêm phổi là gì?


Viêm phổi là  tình trạng nhiễm trùng cấp tính ở phổi. Đây là một bệnh lý hô hấp thường gặp và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em.

Nguyên nhân gây bệnh

Có nhiều loại vi khuẩn và virus khác nhau có thể dẫn đến viêm phổi. Tuy vậy tùy từng trường hợp và lứa tuổi mà tác nhân gây bệnh sẽ khác nhau. Do đó có vi khuẩn thường gây bệnh ở trẻ sơ sinh và những trẻ có hệ thống miễn dịch suy yếu nhưng rất ít gặp ở trẻ lớn và có sức đề kháng tốt.

Trẻ nào có thể mắc bệnh

Có thể nói viêm phổi là  bệnh “không chừa một ai”, mọi trẻ đều có thể mắc bệnh. Tuy nhiên khả năng sẽ cao hơn nếu trẻ có một hay nhiều yếu tố sau đây:

  • Sinh non tháng, nhẹ cân, suy  dinh dưỡng.
  • Sống ở những nơi có thời tiết lạnh.
  • Điều kiện kinh tế xã hội thấp, môi trường sống chật chội, đông đúc, kém vệ sinh.
  • Cha mẹ hay người thân hút thuốc lá trong nhà.
 Viêm phổi biểu hiện như thế nào?

Tùy theo lứa tuổi và tác nhân gây bệnh mà triệu chứng có phần khác nhau.

1. Viêm phổi do virus: 

Hơn 80% các trường hợp viêm phổi ở trẻ em là do virus gây ra. Bệnh có thể lây lan nhanh chóng và khởi phát thành dịch.

Trẻ thường có sốt nhẹ, đau họng, ho, sổ mũi vài ngày trước. Khi bệnh trở nặng trẻ sẽ thở nhanh, co kéo hõm ức – liên sườn. Trường hợp nặng trẻ có thể suy hô hấp, tím tái và tử vong nếu không được xử trí kịp thời.

2. Viêm  phổi sơ sinh:

Một vài ngày đầu sau sinh, trẻ có biểu hiện suy hô hấp như khó thở, khò khè, phập phồng cánh mũi,  tím tái.

Nguyên nhân có thể do bé bị lây truyền từ mẹ, người giúp sanh hay từ người chăm sóc trẻ hoặc cũng có thể từ những dụng cụ bị nhiễm khuẩn. Mặc dù được điều trị  tích cực nhưng khả năng tử vong có thể lên đến 50% nếu trẻ sinh thiếu tháng.

3. Viêm phổi do phế cầu:

Thường diễn ra  vào mùa đông và xuân, tập trung chủ yếu  ở lứa tuổi 13-18 tháng. Nguyên nhân do phế cầu (Streptococcus pneumoniae). Bệnh khởi đầu với biểu hiện của nhiễm siêu vi thông thường như ngạt mũi, sổ mũi, ho, chán ăn sau đó trẻ đột ngột sốt cao, bứt rứt, vật vã, kích thích, thở nhanh, thở rên, co lõm ngực, phập phồng cánh mũi, tím tái. ..

4. Viêm phổi do Heamophilus Influenzae: 

Với các triệu chứng tương tự như viêm phổi do phế cầu, Heamophilus Inflluenzae  là  tác nhân gây viêm phổi chủ ở trẻ  dưới 4 tuổi. Bệnh thường diển ra  vào thời điểm giao mùa, lúc thời tiết chuyển lạnh.

5. Viêm phổi do tụ cầu:

Thường gặp ở trẻ dưới 1 tuổi, với triệu chứng hô hấp tương tự như trong viêm phổi do phế cầu trùng và Heamophilus Influenzae tuy nhiên diễn tiến nhanh và trầm trọng hơn. Ngoài tình trạng suy hô hấp trẻ còn có triệu chứng viêm da, mụn nhọt, nhiễm trùng nhiễm độc …

6. Viêm phổi do liên cầu:

Thường gặp ở trẻ từ 3-5 tuổi. Bệnh cảnh tương tự như viêm phổi do tụ cầu. Sau nhiễm trùng da, mô mềm trẻ bắt đầu sốt cao đột ngột, lạnh run, suy hô hấp, thay đổi tri giác, sốc và tử vong nhanh chóng nếu không được xử trí kịp thời.

7. Viêm phổi do nấm và ký sinh trùng:

Thường gặp ở trẻ sanh non tháng, nhẹ cân, suy dưỡng, suy giảm miễn dịch…

8. Viêm phổi hít:

Thường gặp trên  trẻ có rối loạn phản xạ bú nuốt, trào ngược dạ dày thực quản, dò khí-thực quản, đang phun khí dung hay thở máy…Sau khi sặc và hít phải các chất như sữa, cháo, dịch dạ dày… vào phổi trẻ có biểu hiện sốt cao, ho, khò khè, thở nhanh.

Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...